• Bài viết mới

  • Thư viện

  • Chuyên mục

  • Tag

  • Join 905 other subscribers
  • Bài viết mới

  • Blog – theo dõi

  • Enter your email address to follow this blog and receive notifications of new posts by email.

    Join 905 other subscribers

Tiếng thở dài trong đêm

Kính Tặng Mẹ

 

.

Giữa đêm sâu nghe tiếng thở dài

mẹ vặn vẹo qua cái thời xa lăng lắc

cố nhốt mình giữa lòng bàn tay nắm chặt

bởi không con

mẹ san sớt nửa tình chồng.

 

Tiếng thở dài

nặng cả đêm đông

phả vào mái nhà tranh

ấm nồng

trầu cau hờn tủi

Phận đời may rủi

lẻ duyên

góa bụa

đa cùng.

 

Tiếng thở dài lăn về phía con

bỗng tắt

Mẹ cười cheo leo

con hồn nhiên đến không thấy gập ghềnh.

 

Tiếng thở dài

chạy dọc đời lận đận

vai gầy

quảy gánh buồn thương

không sinh con vẫn thao thức đêm trường

chờ nghe một tiếng khóc

gánh tình chồng đi qua đời nặng nhọc

hoang hoác cõi lòng

vẫn bên chị đợi bên em.

 

Tiếng thở dài trong đêm

dài như đêm

xao xác một đời

thắt thẻo một đời

Mẹ mang hết buồn vui vĩnh viễn đi về bên ấy

tiếng thở trọn đời xao xác mãi bên con.

.


Huỳnh Văn Thống

 

Thiếu phụ đi về từ cửa sau

.

Nhà gát mặt vào núi

Thiếu phụ đi, về cửa sau

Dập dềnh sông sâu số phận

Cạn dòng tát mãi niềm đau

Một đêm

Thiếu phụ tắm giếng khơi hoang lạnh

Giọt trăng rơi chao chát thân trần

Chạm vào gió

gió ngừng

Chạm vào tim

nghẹn thở

Thiếu phụ cười lóng lánh trăng khuya

Núi bỗng quay lưng,

nhà xoay hướng

Phía trước không còn sông sâu

Thiếu phụ nghe lòng trở gió

Thoảng nụ cười trong đêm.

.

Huỳnh Văn Thống

Chuyện trên bãi cát

.

Trên bãi cát chiều nay

Có đôi người bạn gái

Quảy đôi thùng trên vai

Dấu chân tròn mềm mại.

Hồn nhiên như sông lặng

Nghịch như nước đong đầy

Nước sánh cả vào tay

Em tức mình đứng lại.

Nước làm bộ rùng mình

Rồi lặng thinh long lanh

Em dậm chân mím miệng

Em gánh về … trời xanh.

Trên bãi cát chiều nay

Có đôi người bạn gái

Quảy hai đầu trời mây

Đi vào anh êm ái.

.

Chiều trên bờ sông Thu

Huỳnh Văn Thống

Thương Nhớ Dòng Sông

.

Tôi muốn trôi về xuôi mang theo chiều lành lạnh

Giữa trong ngần ôm một áng mây xa

Một chút nắng, một chút mây…đêm trăng tròn vành vạnh.

Kỉ niệm một thời đâu dễ phôi pha

Tôi muốn trôi về xuôi mang theo hình xứ sở,

Ôi cái xứ sở lạ thay, biết giữ lấy người thân bằng một buổi chiều về,

Không đi được, bởi làng em như một người đứng đợi

Tóc xanh buồn bóng đổ trĩu đò ngang.

Tôi muốn bơi trên dòng sông

Con nước nhỏ nên lững lờ rất nhẹ

Nước chia nửa chảy vào lòng tôi sâu xoáy

Vục trăng lên tôi uống mất nửa vầng.

Em đừng buồn vì mất nửa vầng trăng,

Anh phải uống, uống nhanh cho em không kịp cản

Để mai sau trăng lòng anh viên mãn,

Thấy con đò em nhớ nửa trăng xưa…

Đại Bình ơi, những buổi trưa thương nhớ,

Đón trên sông bao sắc áo đi về.

Tôi thẩn thờ thầm gọi một tiếng quê,

Sông nước chảy … lòng tôi xin đọng lại !

Đêm trên sông Thu Bồn

.

Huỳnh Văn Thống

Thương Con

Ngày em ra phố

nước ngập đồng làng

mẹ ngồi hiên mưa đợi tối.

Vắt ngày qua đêm

sờ vai

tiếng con tỉnh khóc.

Phố đông bặm bụi hơi người

em đặt bàn chân quê kiểng

giơ lên nắm tay Xca-lét * ( Scarlett)

Chiếc xe hoa phóng qua đại dương

em đánh đu sóng nước

bóng mẹ dập dềnh, mưa vỗ gọi chầy đêm.

Ngày trở về

nước mắt con nhòa di ảnh

nén hương nhờ hàng xóm còn bay.

Gian nhà trống trơn, mùa trở lạnh

sờ tay lên vai mình

rợn nỗi thương con.

.

Huỳnh Văn Thống

.

**************************************************

* Nhân vật phụ nữ quý tộc trong tiểu thuyết “Cuốn theo chiều gió” (Gone With the Wind, Margaret Mitchell). Khi chiến tranh bùng nổ, trại ấp bị tàn phá, Xca-lét đã đứng trên ngọn đồi cao giơ nắm tay lên thách thức, với quyết tâm “túm lấy gáy cuộc sống”.

Hương trong cửa lớp

.

Hương trời bát ngát đảo say

Ùa vào trong lớp …hương bay mặn mà

Hương em không ở làn da

Hương em là cả quê nhà mang theo.

.

Huỳnh Văn Thống

.

Chim sẻ và em

Chùm thơ đã lâu viết cho học trò, thật bình yên khi đến với các em. Chúc các em một mùa hè thật vui!


.

Một cọng rơm dài cắn trên môi nhỏ xíu

Sẻ nhìn em mỉm cười

Lúc lắc đầu, líu ríu

Nhìn gì, chim ơi chim?

Em không cắn cộng rơm

Môi em mềm sợi tóc

Không lắc đầu láo liêng

Em mơ màng đưa mắt

Nghĩ gì, em ơi em?

Bao cánh chim dìu dặt

Vỗ giữa trời thiết tha

Chim đi tìm cọng rơm

Em đi tìm đôi mắt

Ôi trời xanh …

chim xanh…

Đi học


.

Tươi cười trên lá, nắng mai

Nghiêng đôi mắt sáng ngó vào lòng em

Thẹn thùng tay vuốt tóc đen

Tóc bay bối rối má em ửng hồng.

.

Huỳnh Văn Thống

Đất và Nước

Cảm ơn Đất cho con ngày học nói

Giọng ru hời ngọt lịm Nước quê hương

Vòng đa đoan chen chúc phố phường

Trăm thứ tiếng vẹt mòn tai viễn xứ.

***

Con ra đi giữa những ngày chiến sự

Súng đôi bờ tàn cuộc chẳng tàn canh

Gót chân xa đau đáu bước lữ hành

Quê hương cũ rịm một màu thương nhớ.

***

Chuyện thường thôi sao đêm nằm trăn trở

Trẻ ê a  bập bẹ tiếng quê người

Mẹ ru con khúc nhạc đệm không lời

Nhói lòng câu ca dao rơi lạc.

***

Giữa phố xa nghe tiếng chim lảnh lót

Đất trời nay còn ngọt Nước quê xưa ?

.

Hè 2010

Huỳnh Văn Thống

Giấc Mơ Bên Suối

Tặng các em hs vùng cao


Núi đổ bóng xanh um dòng suối cạn

Cậu học trò nằm ngửa gối chiều buông

Nghe âm vọng rừng thiêng xao xác gió

Lá phượng rơi vừa mới đã xa mù.

**

Em lên đường làm cuộc mưu sinh

Theo chân bố gánh đầu này cơm áo

Những ngày mưa núi rừng giông bão

Thương đầu kia, mẹ nặng xé vai gầy.

**

Lán dựng rồi thấp thoáng giữa ngàn mây

Cái sạp nứa lăn bên nào cũng lạnh

Lăn bên trái, mẹ và em hiu quạnh

Lăn vào trong, mắt bố ướt lưng tròng.

**

Thương nội buồn, chiều chống gậy đứng mong

Cái sân gạch thiếu người nghe rộng quá

Nội hãy cúi, mỗi khi qua bậc cửa

Vấp chân bà, con chảy máu nhiều hơn.

**

Kí ức buồn vui, cánh bướm rập rờn

Em mơ thấy chiếc diều con no gió

Dù chênh chao một trời bỏ ngỏ

Vẫn tin mình có một đường bay.

.

Huỳnh văn Thống

Thơ

.

Thơ ơi! về đâu?

Tôi đọc Vích-to Huy-gô

tình yêu thổi bùng chữ nghĩa,

đọc Mai-a-côp-xki

tấn quặng chữ thành lời.

Cặm cụi đồng xa bất tận

vỡ lòng

tự bất kinh nhân …

Con chữ có ma,

còn hay mất?

Hồn và thơ đánh tráo ngôn từ

Ngỡ thôi miên mà lòng vẫn thức

Dối nhau – buồn

con chữ quần hôn.

Có gặp được ai?

Đồng làng yên lặng

Trăng yên lặng

Dòng sông yên lặng…

Con chữ thẹn – cười hư không!

.

Huỳnh Văn Thống

.

(Suy nghĩ về yếu tố cực đoan trong thơ cách tân)

Tôi Viết Về Các Em

Tặng thầy cô và các em học sinh vùng cao.

.

Tôi muốn viết về các em

Những học sinh  của tôi.

Những học sinh lớn lên trong nắng mưa vất vả,

Quê hương nghèo tất tả ngược xuôi.


Tôi viết về những nỗi nhớ khôn nguôi

Bao áo trắng sớm ngã màu sương gió

Chú chim non mỏ còn son đỏ

Vẫn chọn  rừng xanh

Tung cánh  trời chiều

Sà xuống cánh đồng nứt nẻ thương yêu

Mổ lượm giọt mồ hôi vương vãi


Hè đến rồi, núi cao từng trải

Vắt cơm đùm quên mở giữa ngàn cây

Lá nón, mây song, quả gấc vàng chín rụng

Đường đến trường sao phải đạp chân mây?


Tôi muốn viết về những bàn tay

Không! Tôi muốn hôn – những chiếc hôn dài

như dòng sông, như năm tháng

Giữ hơi ấm từ bàn tay chai sạn

Ngọt làm sao cái ngai ngái hương đồng


Ôi những bàn tay chưa biết làm duyên

Cứ lóng ngóng  nụ cười tràn óng ả

Em vuốt tóc, cơn mưa về vội vã

Tôi tạnh lòng trấn giữ một trinh nguyên.

Em thấy không, núi vẫn xanh

Và những chú chim non đang vỗ cánh …

.

Huỳnh Văn Thống

Thơ Ơi! Đừng Là Khúc Độc Hành

1/ Không trở lại vấn đề vừa mới đã trở thành cũ – thơ, phản thơ – người đọc thiện chí buộc phải nhận ra dẫu còn trăn trở và khắc khoải rằng “thơ mới” Việt Nam thế kỉ 21 đang khấp khởi xuôi dòng.

Tôi không phải là con đò. Chỉ là một khách bộ hành đứng đâu đó ven sông. Soi mình trong một chiều tịnh vắng, tôi muốn cất lên với riêng mình “Sông ơi, đừng là khúc độc hành”!
Cái mới bao giờ cũng tự mình đối diện với các phản lực. Nhớ lại “một thời đại trong thi ca”, thời đại mà cả một hệ thống thi pháp buộc phải thay đổi theo qui luật phát triển nội tại và tiềm năng của văn học dân tộc, đã làm cho không ít người có ý thức nghệ thuật trở thành lực phản của một dòng chảy đang đến hồi không cản được. Các lực phản ấy nhiều khi lại cần thiết, kiểu luật sư và công tố viên trước phiên toà, nó không kiềm hãm mà tạo nên một điều hoà – tự thân, diễn ra ngay trong ý thức người sáng tác – để từ đó mà vượt lên với một tư biện sâu chín. Cũng còn có lý do thứ yếu rằng, ở Việt Nam ta cái mới trên nhiều lĩnh vực kinh tế, văn hoá, văn nghệ thường đến một cách hồ hởi và được cộng đồng tiếp nhận cũng hết sức vô tư nhiệt tình, nhiều khi thái quá (có chủ quan không?).

Riêng trong lĩnh vực thơ ca, thật đáng mừng! Một luồng gió mới đang được thổi bùng lên, không cần nhắc lại tên tuổi, ta cũng thấy hiện lên những gương mặt NGƯỜI – MANG – GIÓ, dẫu phản lực có lúc làm cho tóc lệch ngôi, môi chuyển màu nhưng vẫn là gương mặt ấy: tự tin – cái tự tin của một tín đồ! Sức mạnh của GIÓ đã cuốn theo một thế hệ trẻ và làm mới những cây bút cũ, cả những người biết mình đang cũ. Đủ thấy lộ trình “thơ mới”đang thực sự bắt đầu giữa ngổn ngang những tìm tòi thử nghiệm gian khổ! Ở một bộ phận người đọc, hình như chiếc nôi cũ từng nuôi lớn mình dù tuyệt đẹp vàng son một thuở cũng đã trở nên chật chội quen thuộc quá, nhìn đâu cũng toàn thấy người thân!

Nhìn trên mặt sách báo, người đọc không chuyên nghiệp như chúng tôi thường phân làm ba loại thơ: cũ – nửa mớ i- và quá mới. Có người còn “phân biệt chủng tộc” hơn: thơ làng và thơ cung đình. Anh bạn tôi cay nghiệt: “thơ làng, thơ nửa mới là dành cho mọi người còn thơ quá mới, thơ cung đình là dành cho chính tác giả!”. Nói vậy là oan – tôi công khai bênh vực – thơ có quyền lạ hoá nhưng thiên chức của thơ không được xa lạ hoá con người. Có lẽ trong giai đoạn hiện nay, người thơ đang đi trước và người đọc bình thường đang mỏi gót theo sau. Khoảng cách ấy đang là quá xa – một khoảng cách có phần nghiệt ngã nhưng lại tất yếu của nghệ thuật (nghệ thuật hội hoạ là một ví dụ) nhất là khi các nhà cách tân vào cuộc.

Vậy đến bao giờ để người đọc và người thơ đi kịp nhau trên một con đường? Tiếng nói tri âm sẽ cất lên từ đâu trong cộng đồng?
Bình tâm mà nói, có bao giờ ta quá đà khi nhân danh “cách tân”? Đã có lần trên báo chí úm ùm lên chuyện “phản thơ”, “bất khả giải”…, ai cũng có những quan toà của riêng mình và cả những biện minh hợp pháp, trong văn chương khoảng cách giữa “chính thơ” và “phản thơ”, “khả giải” và “bất khả giải” quả là mong manh, nó phụ thuộc vào quá nhiều yếu tố, văn chương vốn nhiễu sự mà! Bình tâm nhưng hãy công tâm, liệu thơ sẽ đi đến đâu nếu nó không tìm cho mình một chỗ để làm tổ trong lòng người đọc. Thật cũ khi nói rằng:người làm thơ tâm huyết không phải chỉ một mình “khép phòng văn hì hục viết” mà luôn thấy người đọc trước mắt mình, thậm chí phải tỏ ra băn khoăn,giả định trong việc “hướng đạo” đối với người đọc – ẩn tàng. Tác giả quá vô tư, độc giả chỉ còn cách vô tâm thôi!

Tôi thật sự hứng khởi khi đọc nhiều bài thơ cách tân trên Văn Nghệ Trẻ, Sông Hương, Đất Quảng… tôi cảm đươc cái nhã thú dang tay bơi trên một dòng sông rộng, nhiều khi bất lực để mặc cho nước, bèo bọt, cả ánh măt trời chiều vỗ thẳng vào mình, để rồi mấy ngày sau đó còn khổ tâm vì một chuyến chơi sông!


Nhưng cũng có lúc tôi hết sức bi quan đành đứng từ xa nhìn dòng sông thơ tấu khúc độc hành. Cố tìm một mạch ngầm liên kết, một cấu tứ mờ, một vài câu, từ tâm đắc nhưng bất lực như đi lạc giữa một rừng chữ nghĩa hoang dã. Không thể nói tiếng tri âm, đành dối lòng dối bạn. (Không loại trừ điều này còn do năng lực cá nhân của người tiếp nhận). Dù sao cũng thật đáng buồn, tôi viết trên Đất Quảng:

“Con chữ có ma
Còn hay mất?
Hồn và thơ đánh tráo ngôn từ
Ngỡ thôi miên mà lòng vẫn thức
Dối nhau – buồn
Con chữ quần hôn.”

Có phải vì sự linh thiêng của lời cổ nhân “văn chương tối kị tuỳ nhân hậu” hay vì nhân danh cái mới mà ta tự cho mình cái quyền được tranh bước vội vàng trên lộ trình cách tân?

2/ Các nhà cách tân đã vào cuộc, vì sao các nhà lí luận-phê bình chưa lên tiếng?

Vai trò của nhà lí luận và phê bình văn học trở nên rất quan trọng trong một giai đoạn mà văn học có những bước đột phá như hiện nay. Nhìn lại đời sống văn học Việt Nam trong quá khứ, các nhà lí luận và phê bình tiền bối đã thực sự song hành cùng nhà thơ, nhà văn, tác động lẫn nhau và tác động người đọc để cùng làm nên diện mạo văn học từng thời kì.

Chúng tôi – người đọc – đang “ngóng gió đông” thấp thỏm chờ đợi những công trình nghiên cứu qui mô và khả tín kịp thời định hướng thẩm mĩ cho cảm nhận và sáng tác. Đó là thiên chức và trách nhiệm của nhà phê bình trước sự phát triển của văn học dân tộc. Có người nói đùa:lúc này các nhà lý luận-phê bình chuyên nghiệp và tự trọng chưa thể lên tiếng. Anh bạn chuyên viết phê bình và đã từng thành công của tôi cũng thú nhận:“Chưa thấy được xương sống thì thịt da nào có ý nghĩa gì”. Mà đúng thật, chưa thấy được cái xương sống của mỗi bản ngã sáng tạo thì làm sao thấy người, thấy đời, làm sao có thể vững tay phê, bình khi chính mình còn chưa tin ở mình? Đúng là khó tạo một hợp lưu khi mà các dòng chảy thơ đang ào ạt tuôn về các hướng. Phải hình thành một hệ thống tiêu chí mới chăng?

Cũng không quá bi quan, thực ra chưa có công trình lớn nhưng công việc phê bình thơ, điểm thơ cũng đã diễn ra dưới nhiều hình thức trên diễn đàn văn nghệ lâu nay.Ví như lời giới thiệu các tập thơ trên báo, lời ngỏ, lời bạt, các cuộc tranh luận thơ, chuyên mục “thơ-tìm tòi và đổi mới”của Văn Nghệ Trẻ… Chính những “đoản khúc tri âm” này cũng đã góp phần định hướng cảm nhận cho người đọc.

Nhân đây tôi muốn có một đề nghị-chỉ là tình thế thôi – khả dĩ đáp ứng phần nào nhu cầu thưởng thức thẩm mỹ cho độc giả: Trên mỗi số tạp chí địa phương và trung ương nên dành một trang mục “Diễn đàn độc giả”, để đăng trích những cảm nhận ngắn gọn, tự nhiên, không thành bài (không đòi hỏi tính hàn lâm) của các cây bút chuyên, không chuyên, của hội viên, của người đọc mọi tầng lớp, kể cả của tác giả “mở ngỏ” về tác phẩm của mình; nhất là với những tác phẩm được viết theo lối mới. Tiếng nói tri âm từ đó sẽ cất lên, dù chỉ là tri âm “từng phần” hoặc thậm chí không cùng “hệ quy chiếu”cũng đáng trân trọng biết bao! Và tác giả cũng đỡ phần nào cái cảm giác“độc hành”. Để sinh động hơn xin lấy một ví dụ:

Tôi đọc nhiều lần đoạn thơ sau trong bài mở đầu tập thơ “Liên Tưởng”của Lê Vĩnh Tài (NXB Văn nghệ TPHCM – 2006) mà vẫn không thể nào “ngộ” ra: “…chúng ta thường nhầm lẫn khi tưởng tượng cơn mưa và bữa cơm / tấm khăn trải bàn, đĩa cá thu gợi lại sương mù / phố dài ướt mưa chân dài mắt ướt / người đàn bà gợi lại lo âu / sự lừa đối gợi đêm mùa hạ / trong cơn mơ vang một tiếng kêu / như giấc ngủ ai ném lên hòn đá / tại sao những ý nghĩa / vẻ dịu dàng thiên thần của nó đáng yêu như chú bé chăn cừu trong chuyện cổ / hoài công góp lại sao trời và hoa / vẫn ám ảnh câu thơ chúng ta / như mái chèo lướt trên mặt sông / va mãi vào sóng nước …”

Và khi đọc lời bình ngắn trong bài giới thiệu thơ của Nguyễn Việt Chiến trên Văn Nghệ Trẻ (14/1/2007): “Trong đoạn thơ này, Lê Vĩnh Tài đã nhận ra vẻ đẹp nhân văn của ngôn ngữ thơ vẫn mãi mãi ám ảnh những câu thơ và những người thơ trong hành trình sáng tạo văn học của họ, mặc dù có đôi lần người cầm bút đã nhầm lẫn giữa giá trị đích thực của đổi mới thơ với những tìm tòi xa lạ với ngôn ngữ thơ”.

Tôi chỉ biết cảm ơn nhà thơ Nguyễn Việt Chiến – và chỉ cần một đoạn văn ngắn ấy thôi – với tôi, anh đã trở thành người dẫn đường và với Lê Vĩnh Tài, tôi đã là người bạn tuy vẫn còn bỡ ngỡ sơ giao. (Đó cũ ng là một chứng minh cho mối quan hệ : nhà thơ – nhà phê bình-người đọc). Dẫn ra ví dụ trên, một lần nữa tôi muốn khẳng định nguyện vọng của mình.
Nhiều đêm nghĩ quanh quẩn về sứ mệnh của thơ theo cách nói của Mai-a-côp-xki: “Người ta có thể leo qua một câu thơ hay để đến với cuộc đời cao đẹp hơn”, đầy thiện chí tôi mong mỏi “Thơ ơi, đừng là khúc độc hành!”.


Huỳnh Văn Thống

Tản Mạn Tôi Và Anh

(Nghĩ về nhân vật Hộ trong Đời Thừa của Nam Cao)

Tôi nghĩ về Anh trong cơn mưa tầm tã của cuộc đời. Chiều cuối đông, bóng một người duềnh doàng, ngả nghiêng đi vào cõi nhá nhem hư thực!

Có đấy mà không đấy! Anh là Anh mà cũng không là Anh. Anh bước qua tôi hay đằng sau cái chập choạng khóc cười, tôi đã vướng vào Anh như những linh hồn yêu đắm say mà suốt đời chỉ làm người giong ruỗi?

Nam Cao

Biết thế nào hơn trong va chạm cuộc đời, mỗi mảnh vỡ (dẫu nhỏ nhất) của linh hồn khi không được thăng hoa sẽ trầm tích nghìn năm và biến thành từ thạch!

Tôi không dám nghĩ về Anh như một sự đồng điệu nhưng chắc chắn đâu đó trong thế giới của những cái vĩnh hằng tôi đã gặp Anh.
Tôi không hiểu nhiều về Anh bởi tôi không sống cùng Anh trong cái thời áo cơm oằn vai người nghệ sĩ, nhưng tôi biết Anh là mũi tên đa tình quằn quại – rạn gãy – trước dự phóng tình yêu.
Tôi không có đủ cái chất của Anh nhưng tôi mê Anh, tôi thèm cái dòng máu trong Anh, mỗi khi sôi lên là bứt phá khỏi đời thường tục luỵ, toé tung trên cõi “thượng thanh” sáng láng. Anh bồng bềnh trong khoái lạc đam mê!
Anh hơn tôi. Anh là người hạnh phúc. Hạnh phúc – cười. Hạnh phúc – khóc. Hạnh phúc – khổ đau. Hạnh phúc – buồn chán. Hạnh phúc – dang dỡ!
Tôi không được như Anh, tôi không dám thực là mình. Ngay trong những lúc bốc men say – đất trời nghiêng ngã, dẫu không sợ ngai vàng tôi vẫn cố khuôn mình trong góc  hẹp của một thần dân!

Thời tôi khác thời Anh – thằng nghệ sĩ trong tôi khác thằng nghệ sĩ trong Anh, dẫu có lúc chúng lang thang tìm nhau và đắm đuối gọi tên nhau, rồi cùng biến thành những gã si tình bất lực, thất thần trước dấu chân diễm nữ.
Có lẽ nào chúng ngã vào nhau, tan biến trong nhau như một sự trùng phùng của nỗi đau và khát vọng!?

Anh đừng hiểu nhầm tôi, Anh là cánh chim tha thiết với bầu trời, đủ sức tung bay bạt gió nhưng giông bão cuộc đời làm sạt cánh nửa đường bay.
Tôi chỉ là chú ngựa cằn ham hố, những muốn dằn đứt khỏi dây cương, nhưng tài lực bất tòng tâm, đành vuốt trán mình, mà đừng lặng ra ngoài vòng cá cược!
Ở ngã đường nào tôi đã gặp Anh? Cảm ơn cụ Nguyễn xưa đã miệt mài chăng mắc đường tơ để hậu sinh khỏi lạc lối bay xa vòng tục luỵ.

Tôi mê Anh, tôi thích cả cha Anh. Có nghệ sĩ chăng khi ông dám rứt máu mình ném ra cõi đời những đứa con oặt oèo số phận, và bình thản – nhìn, bình thản – khóc, ôi cái bình thản – xé lòng khi nhìn chúng hụp lặn giữa trần gian?

Tôi đứng từ xa nghiêng mình khi lão Hạc đi qua, khi Chí Phèo nằm xuống nhưng lại thảng thốt gọi tên Điền trong những lúc trăng buông. Thôi hãy để “chiếc ghế mây” nằm im trên xó cũ, người nghệ sĩ khoan khoái nụ cười nâng bỗng mình lên những vì sao. Bát ngát cung tiên, huyễn ảo mê say khúc điệu nghê thường và… – đúng lúc ấy – thấy lòng mình chực khóc.

Nhưng Hộ  ơi, Điền ơi, người nghệ sĩ đâu chỉ biết bay, biết khóc, biết cười mà còn phải biết tự tát vào mình – những cú tát nẩy lửa để hồi sinh.
Rồi thỉnh thoảng đem “ánh trăng xanh” khâu vá lại mình, bởi nghệ sĩ bao giờ cũng rách!

Tôi không muốn chia tay Anh, một khi Anh đã đến. Hộ ơi, tôi vẫn hằng sợ cái buổi chiều tự đếm bước chân – đời mình, rồi thảng thốt vươn người qua cửa sổ, cánh tay dài ôm giữ bóng bạch câu.
Anh là ai? Tôi là ai? Tôi đang chiêu tuyết linh hồn Anh hay Anh đang gột rửa bụi bặm trong tôi. Anh là dấu hiệu khốn khổ của sự hồi sinh hay là triệu chứng trầm kha của cái lụi tàn?
Không trả lời tôi, cái bóng duềnh doàng ngã nghiêng của Anh lững thững đi vào năm tháng…

.

Huỳnh văn Thống

Banmaihong's Blog

Nơi Đây Nắng Ban Mai Hồng Reo Vui

Blog Chuyên Anh

Nurturing Language Talents