• Bài viết mới

  • Thư viện

  • Chuyên mục

  • Tag

  • Join 1 092 other subscribers
  • Bài viết mới

  • Blog – theo dõi

  • Enter your email address to follow this blog and receive notifications of new posts by email.

    Join 1 092 other subscribers

Chiếc áo màu đại dương – Pháp Nhật

Những gì mà giọt nước biển chia sẻ đã làm cái nhìn, cái hiểu về biển của chàng thay đổi hoàn toàn. Chàng lên đường đi ra biển. Không biết phải qua bao nhiêu thời gian mà chàng đã tới được biển. Trước mắt chàng là một vùng trời rộng lớn. Biển bao la hơn những gì chàng tưởng tượng nhiều. Và lạ thay! Khi ra đến biển thì màu của chiếc áo mà chàng đang mặc cũng thay đổi. Giờ đây chiếc áo của chàng đã chuyển sang màu xanh lam, màu của biển, màu của sự tự do. ..

https://i0.wp.com/www.daophatngaynay.com/vn/files/images/11-09/GiotNuoc_220725739.jpg

Tiếp tục đọc

Chúc Mừng Ngày Phụ Nữ Việt Nam 20-10

Ngày Phụ nữ Việt Nam là một ngày lễ kỷ niệm nhằm tôn vinh phụ nữ, được tổ chức vào ngày 20 tháng 10 hàng năm ở Việt Nam. Vào dịp này, phụ nữ ở Việt Nam, cũng như tại các nơi khác trên thế giới, được nhiều người bày tỏ sự quan tâm và tôn vinh dưới nhiều hình thức nhưng phổ biến nhất vẫn là tặng hoa hồng, thiệp và kèm theo những lời chúc mừng.

Thân ái chúc tất cả phái đẹp, phe ta, các tác giả và các bạn của Ban Mai Hồng, dù tóc dài hay tóc ngắn ở lứa tuổi nào  và ở đâu luôn trẻ đẹp trong tâm hồn,  thành công trong công việc, học tập và  hạnh phúc;  tự hào vì chúng ta là phụ nữ Việt Nam

Tiếp tục đọc

Những hòn đảo trôi trên sóng nước

“Thiên đường đảo nhiệt đới” chính là một trong những phát minh táo bạo theo xu hướng… “những hòn đảo trôi nổi trong mơ”.

Không còn nhiều hứng thú với việc sáng chế những chiếc du thuyền-chiến hạm như chiếc Eclipse của tỷ phú Abramovich, các nhà thiết kế người Anh đang nghĩ tới “những hòn đảo trôi nổi trong mơ”.“Tropical Island Paradise” (Thiên đường đảo nhiệt đới) chính là một trong những phat minh táo bạo theo xu hướng này.

http://afamily1.vcmedia.vn/HXSlNNcccccccccccc5xcuWBQxwIZ2/Image/2011/07/NewFolder/12/111/020811afamilyNDtropical-5_9f423.jpg

http://afamily1.vcmedia.vn/HXSlNNcccccccccccc5xcuWBQxwIZ2/Image/2011/07/NewFolder/12/111/020811afamilyNDtropical-6_e82e6.jpg

Từ trên cao, người ta vẫn nhận ra đó là một chiếc du thuyền.

http://afamily1.vcmedia.vn/HXSlNNcccccccccccc5xcuWBQxwIZ2/Image/2011/07/NewFolder/12/111/020811afamilyNDtropical-7_7db60.jpg

Một hòn đảo di động có cả bãi đáp cho máy bay truc thang và hai cảng di động.

http://afamily1.vcmedia.vn/HXSlNNcccccccccccc5xcuWBQxwIZ2/Image/2011/07/NewFolder/12/111/020811afamilyNDtropical-8_6a634.jpg

“Tropical Island Paradise” có chiều dài tới 90 mét.

http://afamily1.vcmedia.vn/HXSlNNcccccccccccc5xcuWBQxwIZ2/Image/2011/07/NewFolder/12/111/020811afamilyNDtropical-9_6ec3b.jpg

Và có cả một núi lửa phun nước ngày đêm.

http://afamily1.vcmedia.vn/HXSlNNcccccccccccc5xcuWBQxwIZ2/Image/2011/07/NewFolder/12/111/020811afamilyNDtropical-10_7f5e3.jpg

Nước từ núi lửa sẽ chảy tới bể bơi sâu có cửa số kính trong suốt ở phía sau.

http://afamily1.vcmedia.vn/HXSlNNcccccccccccc5xcuWBQxwIZ2/Image/2011/07/NewFolder/12/111/020811afamilyNDtropical-2_4f6d3.jpg

Chưa dừng ở đó, nhóm phát minh người Anh này còn phác họa ra du thuyền “Streets of Monaco” (Những đường phố Monaco) vô cùng nguy nga tráng lệ

 http://afamily1.vcmedia.vn/HXSlNNcccccccccccc5xcuWBQxwIZ2/Image/2011/07/NewFolder/12/111/020811afamilyNDtropical-3_2f821.jpg

Trên chiếc du thuyền còn có cả “Ốc đảo” (The Oasis) với khu vườn  có thác nước phỏng theo nguyên mẫu Casino ở Monaco.

http://afamily1.vcmedia.vn/HXSlNNcccccccccccc5xcuWBQxwIZ2/Image/2011/07/NewFolder/12/111/020811afamilyNDtropical-4_74b64.jpg

“Streets of Monaco” có 7 khu biệt thự hạng sang với diện tích từ 135-356 m2

http://afamily1.vcmedia.vn/HXSlNNcccccccccccc5xcuWBQxwIZ2/Image/2011/07/NewFolder/12/111/020811afamilyNDtropical-1_8cf19.jpg

Riêng khu vực dành riêng cho chủ nhân của chiếc du thuyền “Streets of Monaco” chiếm tới 3 tầng và có diện tích ở lên tới 1.460 mét vuông.

.

Bùi Phương chuyển bài

 

 

Bác Nông Dân và Những Người Con (Huỳnh Huệ)

Mời các em trở lại với chương trình Vui Học Tiếng Anh qua các video clip bằng Tiếng Anh sau một thời gian dài nghỉ hè.    😛

Hôm nay sẽ là câu chuyện ngụ ngôn của Aesop :    THE FARMER AND HIS SONS.

Giọng kể chuyện Tiếng Anh rõ ràng, dễ nghe;hình ảnh minh họa đẹp; độ dài chỉ 2 phút 30. Clip này là một nguồn luyện nghe,  học Tiếng Anh lý thú và bổ ích. Tiếp tục đọc

Nâng Đỡ (Thích Minh Niệm)

Cuộc đời dù không chỉ toàn mùa đông, nhưng một ngọn lửa hồng ấm áp tình thương bao giờ cũng cần cho những trái tim lạc loài sau cơn bão Tiếp tục đọc

Cười thắt ruột với văn mô tả của trẻ

Chiều nào, em cũng ra công viên ngắm cảnh bình minh. Mặt trời dần xuống dốc núi…: “Con gà nhà bà em mới đẻ được một con gà con nặng 2kg…”. Tiếp tục đọc

Những bài văn cười đau bụng

Đề 1: Em hãy phát biểu cảm nghĩ của mình về thân phận nàng Kiều trong thời đại phong kiến.

Bài làm:

“Kiều là 1 người con gái tài sắc vẹn toàn, song nàng đã bị chế độ phong kiến vùi vào đống bùn nhơ. Đến nỗi, chịu không nổi, nàng đã nhảy xuống sông Tiền giang tự vẫn. May thay lúc đó có một bà đảng viên đi công tác về, bà liền nhảy xuống sông cứu nàng. Sau đó, Kiều giác ngộ và đi theo con đường Cách Mạng.”

Đề 2: Em hãy phát biểu cảm nghĩ của mình về việc Nguyễn Du đã để lại cho chúng ta tác phẩm Truyện Kiều.

Bài làm:

“… Nguyễn Du là lão tiền bối của chúng ta. Mặc dù tiền bối đã sớm ra đi vào một chiều gió lạnh, nhưng vẫn làm chấn động cả giới hậu bối của chúng ta, qua bí kíp võ công “Vương Thúy Kiều” hay còn gọi là “Đoạn Trường Thất Thanh”. Bằng chứng là qua các kỳ thi, pho bí kíp này lại xuất hiện và làm “thất điên bác đảo” cả giới “hậu bối” chúng ta” … Tiếp tục đọc

Tiếng Ve Gọi Hè (Nguyễn Khoa)

“Mùa hè năm nay có lẽ nóng nhiều đây- lời của mạ nghe bình thản nhưng chất chứa nhiều kinh nghiệm. Uống nhiều nước nghe con, nước chè xanh càng tốt, chú ý cho mấy đứa nhỏ uống nhiều nước trái cây. Trời chi càng ngày càng nóng nôi”. Đã hơn bốn mươi tuổi đầu thế mà mạ vẫn xem tôi như còn nhỏ dại, dặn dò đủ thứ. Chỉ có câu gần cuối mới cho thấy là tôi đã lớn- đã có con Tiếp tục đọc

Đom đóm vào nhà ( Nguyễn Đình Xuân)

          Khi đến tháng Tư âm lịch là đã sang mùa hạ. Thế mà trời vẫn trở gió Đông Bắc, đêm lắc rắc mấy hạt mưa. Để lấy khí trời nên tôi không đóng cửa sổ. Bất ngờ có chú đom đóm bay vào phòng ngủ, sáng lập lòe. Đèn trong phòng đã tắt nên ánh sáng đom đóm rõ hơn. Đom đóm bay vòng quanh nhà, sà lên trần màn rồi lại tất tả bay. Con trai nằm cùng tôi ngạc nhiên hỏi con vật gì mà sáng lập lòe thế. Ờ nhỉ, con đã bao giờ nhìn thấy đom đóm đâu. Những năm trước sống giữa khu phố cổ, rồi chỉ về quê khi đã nghỉ hè, hết năm học, làm sao con gặp đom đóm, để mà nhận biết? Tiếp tục đọc

Cười mà xót: Những Bài Văn Bất Hủ của Học Trò

Tả con gà trống với đuôi cong vút như cây cầu, đầu thì trông như quả xoài, tả bác nông dân với khuôn mặt trái xoan, nước da trắng hồng rạng rỡ…
> Nhất tự vi sư/ Hẹn hò thời tiểu học/ Tưởng cô cũng vậy

Đề: Tả bác nông dân.

Hè vừa qua, em được bố mẹ cho về thăm quê. Em nhìn thấy một bác nông dân đang làm việc trên đồng. Bác nông dân có một khuôn mặt trái xoan, mũi dọc dừa, miệng tròn xinh. Đặc biệt, làn da của bác trắng hồng rạng rỡ. Bác đang đi sau một con trâu rất béo. Bác quát lớn: Họ… họ… họ… và con trâu nghe lời bác, cứ thoăn thoắt bước đi. Tiếp tục đọc

Nghễnh ngãng thơ (Nguyễn Tấn Ai)

Xưa khi còn ở cái mùa “dĩ thi thủ sĩ”, khi văn chương trường ốc thì thi phú chiếm đến 1/3 hẳn các nhà thơ phải là những nhà thông thái, không như bây giờ hễ chú học trò nào ngờ ngờ nghệch nghệch lại được thiên hạ ác khẩu âu yếm mến tặng cho mấy chữ “ nhà thơ”!

Nhân lan man nghĩ ngợi, lại nhớ ra hình như là ở ngay cái thời huy hoàng nhất của thi phú mà cũng có những chuyện thơ còn hơn cả cậu ngờ cô nghệch.    Tiếp tục đọc

Hương sen (Nguyễn Tường Bách)

Hoa sen “tròn mà nhọn”. Đó là một câu của thời xa xưa, khi tôi mới vỡ lòng tập đọc. Mới nghe câu này người ta dễ thấy có gì vô lý. Thế nhưng nếu từng ngắm hoa sen, người ta thấy quả thật nó “tròn mà nhọn”. Hoa sen lúc còn “búp” cũng thế mà mỗi cánh hoa lúc đã nở cũng “tròn mà nhọn” như thế. Hình dáng giản đơn đó của hoa sen – ngờ đâu – là cách tôi dùng để phân biệt hoa sen với các thứ hoa cùng loại, ngày sau khi lớn lên.

Tiếp tục đọc

Điểm Tám (Nguyên Hương)

Giờ trả bài tập làm văn luôn là giờ sôi động nhất vì thầy giáo thường đọc cho cả lớp nghe hai bài, bài được điểm cao nhất và bài có điểm thấp nhất. Tất nhiên, bài cao điểm được những tràng pháo tay và bài điểm thấp là những trận cười, chưa kể sau đó còn hình thành nên nhiều giai thọai từ những câu mà thầy giáo nhận xét là “qùe, cụt, thiếu sức thuyết phục…”. Và giai thọai này đôi khi còn lan truyền ra cả các lớp khác khiến tác giả của nó chỉ còn cách là lấy cả hai tay mà che mặt lại. Vào giờ này, cả lớp đứa nào cũng hồi hộp đến thót tim khi xấp bài trên tay thầy giáo đã vơi nhiều rồi mà bài của mình còn chưa thấy đâu. Tiếp tục đọc

Nguyễn Bính Khóc Nguyễn Nhược Pháp

Lễ tưởng niệm thi sỹ Nguyễn Nhược Pháp
 Thi sĩ Nguyễn Nhược Pháp

Thi sĩ Nguyễn Nhược Pháp nổi danh trong trào lưu Thơ Mới những năm 30 thế kỷ trước với chất giọng tươi trẻ, hài hước, hiền lành mà có duyên như nhận xét của Hoài Thanh: “Đọc thơ Nguyễn Nhược Pháp, lúc nào cũng thoáng thấy bóng một người đang khúc khích cười”. Nhà thơ Nguyễn Nhược Pháp sinh năm 1914, mất năm 1938 tại Hà Nội, là con duy nhất của bà vợ hai nhà báo, dịch giả nổi tiếng Nguyễn Văn Vĩnh. Bà tên là Vi Thị Lựu, người dân tộc Tày, quê ở Lạng Sơn. Sau khi bà Vi Thị Lựu sinh Nguyễn Nhược Pháp, ông Nguyễn Văn Vĩnh lấy thêm vợ ba, người Pháp. Bà Vi Thị Lựu phẫn uất tự tử chết. Lúc đó Nguyễn Nhược Pháp mới hai tuổi.

Tiếp tục đọc

Một Năm Với Ban Mai Hồng ( Nguyệt Linh)

https://i0.wp.com/khoaanh.hcmup.edu.vn/projects/tilt2010/3C07/Unit.11.Ai.Linh_Thu.Ngan_Thanh.Tam/web/images/dreams1.jpg

Còn nhớ những ngày đầu biết đến Ban Mai Hồng, em chỉ là một nhóc lớp 8 kiêm một trong những người đọc thầm lặng. Thi thoảng,  nếu có gõ comment thì gõ vài câu ngắn ngủn và lại rất lập khuôn và nếu nhìn kĩ thì cái tên“Nguyệt Linh-Như Thảo” luôn đi kèm với nhau. Trong một thời gian, em như một người núp sau bóng của Thảo. Có lẽ vì lúc đó em chả hiểu gì về văn hoá đọc, cũng chả biết rằng chỉ cần một cái comment của mình thôi lại là một nguồn động viên rất lớn với những tác giả thân thương của BMH.   Tiếp tục đọc

To Live Is To Fight ( Nguyên Hương)

   Nhân ngày Ban Mai Hồng tròn một tuổi, xin  giới thiệu đến các bạn và các em một tác giả mới chính thức góp mặt trên trang Ban Mai Hồng của chúng ta. Chắc chắn rằng cái tên Nguyên Hương của  thành phố cao nguyên Ban Mê Thuột này  rất quen thuộc  với các bạn đọc trẻ trong nước, vì nhà văn nữ này đã có nhiều tác phẩm được xuất bản.

      Các tác phẩm như Quà Muộn, Những Giấc Mộng, Những Bông Hoa Hình Lá, Nguồn Cội Lênh Đênh, Tia Cầu Vồng Màu Chàm, Song Sinh, Ngày Có Bốn Mùa, Chiều Cao Ở Trong Lòng Ngực, Mẹ Con Đậu Đũa, Hoa Rù Rì, Yêu Bằng Tai …, được nhiều bạn đọc (nhất là giới trẻ) yêu thích. Từ Quà Muộn, tập truyện ngắn đầu tay đoạt giải nhất cuộc thi Văn học tuổi 20 vào năm 1995 đến nay, Nguyên Hương vẫn sáng tác đều đặn và có nhiều truyện ngắn đoạt các giải thưởng của các báo Tiền Phong, Hoa Học Trò, nhà xuất bản Giáo Dục…  cũng như được dịch sang tiếng nước ngoài Hoa, Anh, Pháp kể cả chuyển thể thành phim.

Tiếp tục đọc

Bạch Mã Ôn (Tấn Ái)

Tôn Ngộ Không ( nhậm chức Bạch Mã Ôn)

Người Tàu có một ngụ ngôn cực hay: Chú khỉ đá Tôn Ngộ Không ỷ vào tài phép bèn quậy đến thiên đình. Cuộc đại chiến kinh hoàng, tài năng khỉ  đến  Bát tý Na Tra cũng bó tay. Bí thế Ngọc Hoàng phong cho chú chức quan lớn: Bạch Mã Ôn. Khỉ chịu phép, đội mão mang đai ra chiều ngạo nghễ. Kì thực khỉ bị lừa, Bạch mã Ôn bất quá cũng chỉ là thằng chăn ngựa. ( Lược thuật Tây Du Kí )

Thử hỏi Ngọc Hoàng có lỗi không nhỉ?

Tôi nghĩ rằng không. Bởi tài phép khỉ bất quá cũng chỉ là cái tài đánh nhau, mà đánh nhau là bản năng động vật chứ đâu phải bản năng người, khỉ bèn thắng. Nhưng khỉ là khỉ, không thể là người, khỉ chẳng thể làm quan. Đưa loài khỉ lên làm quan thì còn ra thể thống gì nữa? Chính cái tập tính khỉ nó sẽ đổ xoá hết mọi nền nếp trật tự của loài người. Thôi thì đủ thứ, thí dụ: Khỉ không biết chữ, khỉ bèn xé sách vở; tính khỉ hay trộm vặt, khỉ bèn vào chùa trộm oản quả; tính thích la cà, cái đít lông lá của khỉ sẽ lê la khắp các đại tiệc; vốn nhiêu sự, cái mồm chí choé của khỉ bèn hội nghị liên tu bất tận; rồi ưa bè phái, khỉ bèn dắt díu theo nào là heo Bát giới, nào sọ Sa tăng mà phong tuốt làm nguyên soái với tướng quân. Song đại hoạ ghê gớm nhất là bởi tính vốn kiêu ngạo, khỉ kiên quyết rằng giống khỉ mới là tổ tiên loài người, khỉ bèn nổ lực đưa thế giới loài người trở về thời kì khỉ!

Vì vậy mà chỉ nên cho khỉ làm Bạch Mã Ôn, bởi dẫu có mão áo cân đai thì cuối cùng khỉ cũng chỉ là khỉ!

.

Nguyễn Tấn Ái

Bình Phẩm thơ chân dung (Kỳ II)

3. Nguyễn Đình Thi sinh năm 1924, mất năm 2003.

Từng giữ những chức vụ chủ chốt của hội nhà văn: Tổng thư kí hội văn hoá cứu quốc, tổng thư kí hội nhà văn.

Ông là một nhân cách lớn, và cũng vì lớn nên như có người nhận xét: Nguyễn Đình Thi ít khi được sống thật với con người của mình.

Kể lại một chuyện vui, không biết có giúp ích chi nhiều cho việc hiểu thơ chân dung về ông không: Năm 1996, tôi dự lớp tập huấn văn, các giáo viên cứ nằn nặc đòi ông đọc bài thơ Đất Nước, mà ông thì cứ tha thiết kể về Nguyễn Trãi ở Đông Quan, cái tác phẩm mà vì nó mà không mấy quan chức mặn mà với ông, đến độ ông phải dỗ: Nghe đi nhé, chờ tí nhé, rồi anh Thi sẽ đọc thơ!  Tiếp tục đọc

Bình Phẩm Thơ Chân Dung

Bình Phẩm Thơ chân dung.

Xin được góp đôi dòng về những chân dung thơ mà nhà thơ Xuân Sách đã gửi đến bạn đọc.

Cũng xin nói trước đây chỉ là ý kiến chủ quan của một người đọc, mà tuyệt đối không phải là công phu khảo cứu hay phê bình chi chi, nên không khoác bừa cho mình cái tư cách dọn đường dư luận, chỉ là vui thôi!

Kì này góp ý với  hai món : Nam Cao, Lưu Trọng Lư.

1

Em còn đôi mắt ngây thơ

Sống mòn mà vẫn đợi chờ tương lai

Thương cho Thị Nở ngày nay

Kiếm không đủ rượu làm say Chí Phèo. Tiếp tục đọc

Ước Mơ

Tiếng gió réo rít ngoài cửa sổ, từng giọt mưa li ti nhẹ rơi, nó ngồi bên khung cửa, mắt suy tư, dường như trong mắt nó ngập đầy ký ức. Nó nhớ! Nhớ cái hồi còn bé tí, bố nó dắt nó đi chơi, mẹ nó làm bánh in, bánh tét ngon tuyệt. Nó nhớ về những kỉ niệm đẹp, về cái ngày mà nó còn bên bố mẹ và cả cái ngày bố mẹ nó đột ngột rời xa nó.

Gia đình của nó chỉ vỏn vẹn có ba người: bố nó, mẹ nó và nó. Không hiểu sao gia đình nó lại chẳng có bà con họ hàng gì. Vì hoàn cảnh gia đình khó khăn, từ nhỏ nó đã phải cùng bố mẹ rời xa thành phố rực rỡ ánh đèn để đến sinh sống ở một vùng núi cao, hẻo lánh. Bố mẹ nó phải đi làm thuê, phát nương, làm rẫy, lo cho nó ăn học. Tuy cực khổ nhưng những tháng ngày đó đối với nó là vô cùng hạnh phúc. Cuối cùng cái hạnh phúc nhỏ nhoi đó cũng vụt khỏi tầm tay nó. Một đợt lũ quét kinh hoàng đã cuốn đi tất cả, cuốn đi bố mẹ nó.

Mắt nó dường như ươn ướt. Bỗng một bàn tay đập nhẹ vào vai nó.

– Sao vậy Linh? Đang mơ mộng gì à?

Đó là thầy Huy, thầy giáo dạy văn của nó, đồng thời cũng là người đã dang rộng vòng tay đón nhận nó, chăm sóc nó suốt bốn năm kể từ khi bố mẹ nó qua đời

Nó giật mình, vội ngẩng mặt lên mái nhà, khẽ nháy đôi mắt, cố giấu đi những giọt nước mắt tưởng chừng như muốn òa ra.

Nó quay lại, nở một nụ cười:

– Dạ không có gì đâu ạ! Em đang nhìn mưa, mưa đẹp thầy nhỉ, thầy thấy em có lãng mạn không ! – Nó làm ra vẻ vui vẻ.

Thầy Huy khẽ xoa đầu nó, thầy biết chứ, thầy biết nó đang nhớ bố mẹ, thầy cũng nhận ra cái mũi ửng hồng, đôi mắt cay cay vì sắp khóc của nó. Thầy lặng im.

Thầy Huy cũng trạc tuổi bố mẹ nó, là một giáo viên lâu năm. Thầy chưa có gia đình, sống một mình trong một căn nhà nhỏ nhìn ra đồng ruộng xanh mát. Thầy lớn lên từ trại trẻ mồ côi, ném trải nổi đau vì mất mát, chứng kiến bao mảnh đời bất hạnh, có lẽ vì vậy mà thầy hiểu được nổi đau của nó. Từ ngày có nó bên cạnh, thầy như bớt cô đơn hơn nhưng có lẽ niềm vui lớn nhất của thầy là được làm một người cha, một người thầy nâng giấc cho những ước mơ và nâng đỡ cho những mảnh đời bất hạnh.

Mãi nhìn mưa, suýt nữa là quên cả giờ đi học. Nó giật phắt mình

– Ối! Phải ăn cơm rồi đi học, không thì trễ mất thầy ơi!

Thầy Huy cũng giật mình, quên mất việc thầy đang muốn vào gọi nó ra ăn cơm

Thế là hai thầy trò ăn vội miếng cơm rồi cùng đến trường.

Vẫn chiếc áo sơ mi bạc màu, trên con đường rợp bóng mát, thầy Huy đèo nó trên chiếc xe đạp đã cũ, chiếc xe đã gắn bó với thầy từ hồi còn học cấp hai, chiếc xe mà thầy đã nhận được từ quỹ hổ trợ trẻ em mồ côi học tập, có lẽ vì thế mà thầy luôn trân trọng, giữ gìn chiếc xe ấy như một báu vật – một báu vật của tình thương.

Tùng..! Tùng …! Tùng..!.. – Tiếng trống trường đã điểm.

Nó vào lớp học. Hôm nay có tiết văn của thầy. Thầy bước vào lớp, vẫn cái giọng trầm và ấm áp cùng nụ cười  hiền từ :

– Chào các em! Hôm nay chúng ta sẽ bàn về một vấn để. Đó chính là “ước mơ”.

– Thưa thầy, em muốn làm bác sĩ.

– Em muốn làm kĩ sư.

– Em muốn làm…

Rất nhiều ý kiến được các em học sinh hào hứng nêu ra. Với nó, ước mơ là gì? Là học sinh cuối cấp nhưng có vẻ như đối với nó, khái niệm “ước mơ” nghe thật xa lạ.

– Ước mơ là gì? – Nó mơ hồ, suy nghĩ.

Một cái cốc nhẹ lên đầu nó

– Linh hãy cho thầy biết, ước mơ của em là gì? – Thầy Huy ôn tồn hỏi.

– Dạ …, dạ… em không biết thưa thầy! – Nó ấp úng.

Thầy nhìn nó với ánh mắt trìu mến. Thầy hiểu tâm trạng của nó. Thầy cho nó ngồi xuống và nói.

“ Các em à, làm người ai cũng có ước mơ của riêng mình. Người không có ước mơ là người sống không mục đích, không lí tưởng và sẽ chẳng bao giờ đến đích. Biết đâu đó ở một góc nhỏ trong chính con người các em, ước mơ đang hiển hiện, chỉ là các em chưa nhận ra được điều đó. Hãy sống và biến ước mơ thành hiện thực dù có gặp khó khăn, thử thách gì đi nữa. Nếu người có ước mơ lại chùn bước thì mãi mãi ước mơ chỉ là ước mơ mà thôi.”

Trên đường về, nó ôm chặt lấy thầy và hỏi:

– Thầy ơi! Ước mơ của thầy là gì vậy?

Thầy mỉm cười:

– Ngày xưa thầy cũng như con, không biết ước mơ là gì và cũng chính từ những lời dạy bảo của thầy cô giáo, thầy đã bắt đầu biết ước mơ. Ước mơ của thầy là được làm một người thầy giáo, đem tri thức mà thầy có được truyền đạt lại cho các em học sinh, ước mơ của thầy là được giúp đỡ những trẻ em có hoàn cảnh khó khăn, mồ côi và đặc biệt là thầy muốn dạy cho các em cách làm người, cách biết ước mơ.

Nó gật gù và lặng im

Một ngày chủ nhật đẹp trời, nó tỉnh dậy sau một giấc ngủ say, vừa chạy ra khỏi phòng nó đã thấy thầy mặc chiếc áo sơ mi quen thuộc bước ra khỏi cổng.

– Thầy định đi đâu vậy nhỉ? – Nó tự hỏi.

Nó lẻn bước theo thầy, theo sau cái dáng người gầy gò của thầy đến một ngôi trường nhỏ ở đầu làng. Nó đứng nấp sau một thân cây cổ thụ và trước mắt nó là ngôi trường dành cho trẻ em khuyết tật. Nó chợt nghĩ đến con heo đất đã cũ thầy cất trong tủ quần áo mà nó vô tình nhìn thấy.

– Thì ra với đồng lương ít ỏi của thầy, hằng ngày thầy vẫn dành dụm để giúp đỡ cho trẻ em tàn tật – Nó như hiểu ra một điều gì rồi chạy một mạch về nhà, lục lọi trong túi áo số tiền mà nó đã để dành mỗi khi thầy cho nó ăn quà vặt rồi lén bỏ vào trong con heo đất của thầy. Dường như nó đã cảm nhận được hương vị của tình thương, của lòng nhân ái, mà người dạy cho nó chính là thầy.

Bên thầy, mỗi ngày đối với nó là một niềm hạnh phúc. Nó nhận ra thầy không chỉ là một người thầy giáo mà còn là một người nội trợ tuyệt vời. Món nào thầy nấu cũng ngon mà ngon hơn cả là vị ngọt của tấm lòng.

Từng ngày trôi qua, nó nhận ra những sợi tóc điểm bạc trên mái đầu thầy những nếp nhăn mỗi lúc một hằn sâu trên khuôn mặt thầy. Có đêm nó lén nhìn qua vách tường, thầy vẫn ngồi đấy bên ngọn đèn dầu mờ mờ, soạn từng trang giáo án. Có hôm thầy bị ốm, ấy thế mà nó vẫn thấy thầy bên cái bàn gỗ nhỏ làm việc, thức tới tận khuya.

Nó thương thầy! Nó thương thầy lắm! Dường như nó muốn nói điều gì nhưng cổ họng nó cứ nghẹn ứ lại, không nói được gì.

Một buổi sáng đầy sương mù, vẫn trên chiếc xe đạp cũ, thầy đèo nó đến trường. Hình như thầy đạp xe yếu hơn mọi khi, nó cảm nhận được hơi thở mỗi lúc một mạnh hơn của thầy, những giọt mồ hôi trên trán thầy.

– Thầy ơi, thầy có mệt không, để em chở thầy nhé! – Nó ôm thầy nói

– Không đâu, thầy khỏe lắm, được đến trường dạy bảo cho các em học sinh là niềm vui lớn nhất của thầy – Thầy mỉm cười

Vẫn tiết văn, thầy bước vào lớp. Nó nhận ra ngay gương mặt tái nhạt đi của thầy, có vẻ như thầy đang rất mệt nhưng thầy vẫn cố gắng chỉ dẫn tận tình như mọi hôm. Một tiếng lách cách vang lên trong khi nó đang cắm cúi viết bài. Thì ra là tiếng phấn rơi xuống sàn. Nhưng không! Thầy ngã xuống

– Ôi! Thầy ơi! – Nó thốt lên

Trên đường đưa thầy vào bệnh viện, tim nó đập mạnh, đôi tay nó run run bấu chặt lấy tay thầy. Nỗi đau của sự mất mát lại ùa về trong nó. Nó sợ! Nó sợ lại mất thầy.

Đôi mắt nó lờ đờ, vô định, nước mắt  cứ thế òa ra, nó khóc trong âm thầm chờ đợi.

Từ phòng cấp cứu, bác sĩ bước ra, mọi người kéo lại bao quanh bác sĩ, nó đứng nép một bên, bàn tay bấu chặt vào bức tường, hồi hộp, lắng tai nghe.

Một ánh mắt buồn, thất vọng, một cái lắc đầu khiến lòng nó nặng trĩu, nó không còn nghĩ được gì hơn nũa. Nó chạy thẳng vào phòng cấp cứu, gục đầu xuống giường bệnh và òa khóc.

– Thầy ơi! Thầy ơi! Thầy đừng bỏ Linh đi nhé!

Với sức lực cuối cùng, thầy cố nhấc bàn tay gầy gò, đặt lên mái đầu nó.

– Ba mãi bên con, ủng hộ con – Giọng thầy yếu ớt.

Rồi tay thầy buông xuống, trượt nhẹ trên mái đầu nó, nó ngẩng mặt lên, tim nó như ngừng đập.

– Ba …a …a ! Ba …a…a! – Nó thét lên.

Tiếng “ba” mà đã bốn năm rồi nó không còn được gọi. Tiếng “ba” từ sâu trong đáy lòng nó. Tiếng “ba” mà nó đã muốn gọi từ rất lâu rồi. Một ước mơ mà dường như nó đã mơ hồ nghĩ đến, ước mơ được gọi tiếng “ba” mà nó đã từng không thể thốt nên lời để rồi bây giờ nhận ra, nó biết mình đã trễ. Nó ôm chầm lấy thân hình gầy gò vì sương gió, tảo tần, tận tụy của thầy – người cha thứ hai của nó, cảm nhận hơi ấm cuối cùng của người thân yêu duy nhất còn lại của nó. Nó ngất đi vì mệt trong khi bàn tay nhỏ bé của nó vẫn nắm chặt lấy tay thầy, đôi môi vẫn thầm gọi tiếng “ba” hòa cùng dòng nước mắt.

Trong đám tang của thầy, mọi người đến rất đông, có cả những đứa trẻ khuyết tật trong ngôi trường nhỏ đầu làng mà thầy vẫn thường ghé thăm. Còn nó thì ngồi thừ ra đó, dường như nó không còn đủ sức để khóc nữa. Mọi người nhìn nó thương cảm, ai nấy đều rơi nước mắt. Thầy Huy mất đi để lại cho nó, cho cán bộ nhân viên nhà trường, cho các em học sinh một nỗi đau vô hạn, một niềm tiếc thương, một sự lưu luyến về hình ảnh một người cha, một người đồng nghiệp, một thầy giáo giản dị, ân cần và tận tụy.

Mất thầy, mỗi ngày trôi qua đối với nó như một địa ngục. Nó nghĩ đến những mất mát đã xảy ra với nó, rồi nó lại khóc. Chợt nhớ đến con heo đất, gạt nước mắt, chạy vội vào phòng, nhịp tim mỗi lúc một mạnh hơn, đôi tay nhỏ bé lại run lên, nó ôm chặt lấy con heo đất – món quà mà thầy đã tặng cho nó vài ngày trước khi qua đời. Nó run run gở từng mảnh dán đã sờn cũ, hồi hộp, chờ đợi như linh cảm về một điều gì. Trong đó là một số tiền mà thầy đã dành dụm để lại cho nó và một bức thư.

– Cái gì đây? – Nó thầm hỏi.

Nó vội vàng mở bức thư ra và đọc

“Con yêu quý, khi con đọc lá thư này cũng là lúc ba không còn ở bên con nữa. Ba đã rất mong được nghe tiếng con gọi “ba” dù chỉ một lần nhưng chắc có lẽ con còn rụt rè…

Con yêu quý, hãy sống cho thật tốt, hãy ước mơ và biến ước mơ thành hiện thực. Ba hy vọng rằng một ngày nào đó con sẽ tìm được ước mơ đích thực và sẽ tự hào về con đường mà con đã chọn. Hãy san sẻ tình thương cho những người bất hạnh, hãy vực dậy và tiến về phía trước con nhé!…

Ba mãi bên con, ủng hộ con!”

Giọt nước mắt lăn dài trên má nó, nó lại òa lên khóc, nó khóc sướt mướt, nó khóc như chưa từng được khóc, nó khóc vì đã bỏ lỡ đi một ước mơ, ước mơ được gọi tiếng “ba” khi ba nó còn ở trên đời, nó khóc để lấy lại tinh thần, nghị lực, rồi nó thiếp đi bên lá thư ướt nhòe nước mắt, trên chiếc bàn thân thương nơi người thầy – người cha thứ hai của nó vẫn ngày đêm miệt mài bên trang giáo án.

Từ thời khắc ấy trở đi, nó thay đổi hoàn toàn, nó không còn yếu ớt, rụt rè nấp trong cái vỏ bọc như ngày xưa. Nó mạnh mẽ, kiên cường và đầy nghị lực.

Mỗi khi có ai hỏi về ba nó, nó luôn tự hào nói rằng:

-“ Tôi có hai người cha tuyệt vời, một người đã sinh ra tôi và một người chắp cánh cho ước mơ của tôi”

Năm ấy, nó tốt nghiệp được hàng thủ khoa của trường đại học sư phạm. Khi được mời lên phát biểu cảm nghĩ. Nó nghẹn ngào:

– “ Ước mơ của tôi là nguyện suốt đời làm người lái đò tận tụy đưa học trò cập bến vinh quang, tôi muốn nói với thầy – người cha đáng kính của tôi rằng: Con xin lỗi vì đã không gọi tiếng “ba” sớm hơn. Cha ơi! Cha là một người cha vĩ đại, người đã vén mở tấm màn tri thức cho con, cho con biết thế nào là ước mơ và biến ước mơ thành hiện thực. Sẽ không phải quá trễ để ước mơ phải không cha! Con đã làm được! Trong lòng con, cha là người tuyệt vời, một biểu tượng cao cả về vẻ đẹp của người thầy.”

.

Đặng Thị Hiếu

Lớp: 12A2 , THPT Quế Sơn, Quảng Nam

Tri kỷ

Bá Nha – Tử Kỳ

Nghĩa tri kỉ, tình tri âm thì thời nào, đời nào, dân tộc nào trên đất này mà không ôm niềm vọng tưởng?

Tôi nhớ đâu rằng năm 7 tuổi Mô-da  ( Mozart)   đi biểu diễn ở Phơ-răng-phua, một cậu bé 14 tuổi đã từ đám cử tọa chìa tay bắt tay cậu bé Mô-da và thốt lên: Cậu vĩ đại thật! Cậu bé có lời chào trang trọng đó là Gớt ( Goethe) , thi hào, tác giả của thi phẩm Pao-x-tơ (Faust) vĩ đại sau này. Thật là cuộc gặp gỡ của những tầm cỡ khác thường.

Lại nhớ đâu sau này, khi đã là nhạc sĩ nổi tiếng, Mô-da một lần tiếp một cậu thanh niên đến thọ giáo âm nhạc, sau khi nghe một khúc ngẫu hứng của cậu ta, chính Mô-da vĩ đại đã kinh ngạc thốt lên: Chàng trai, tương lai âm nhạc sẽ thuộc về cậu! Chàng trai đó chính là nhạc sĩ Bê- thô- ven ( Beethoven)  sau này.

Lại kể ông tổ của chủ nghĩa cộng sản là Mác ( Marx)  với nhị tổ Ăng-ghen (Angel ) cũng là một tình bạn thật cao cả vĩ đại, đến độ Ăng-ghen đành bỏ dở sự nghiệp hoạt động xã hội của mình để trở thành một thương nhân hầu lo cho gia cảnh của Mác, để Mác yên tâm mà viết nên bộ Tư Bản vĩ đại.

Đó là những tình tri kỉ thật kinh điển của phương Tây.

Nhưng công bằng mà nói, chính phương Đông mới là đất mà tình tri kỉ nghĩa tri âm đã được tôn thờ, thậm chí đẩy lên thành một lí tưởng.

Người Trung Quốc thường truyền tụng những huyền thoại đẹp về Thúc Nha- Quản Trọng, Bá Nha- Tử Kì, Trần Phồn- Từ Trĩ.

Quản Trọng, tể tướng nước Tề, từng giúp Tề Hoàn công lập nên nghiệp bá, thuở hàn vi thân cùng Bảo Thúc Nha. Khi đi trận thường bỏ chạy trước, người ta ai cũng chê Quản Trọng hèn nhát, chỉ Thúc Nha là nhất quyết tin rằng Quản Trọng không muốn liều một chết là để lưu cái thân hữu dụng về sau, cái dũng của hạng thất phu sao mà sánh kịp. Khi đi buôn cùng Thúc Nha, chia phần lãi, Quản Trọng thường giành phần nhiều hơn, vợ Thúc Nha chê Quản Trọng là tham, chỉ Thúc Nha bảo vợ rằng Quản Trọng sở dĩ chiếm phần hơn là vì phải còn nuôi mẹ già. Mãi đến khi làm tể tướng, Quản Trọng vẫn thường kể với bề tôi rằng “ sinh ra ta là cha mẹ ta mà hiểu ta thì chỉ có một Bảo Thúc Nha vậy”.

Lại chuyện Bá Nha kết nên nghĩa với Tử Kì. Bá Nha làm quan lớn, lại tự ngạo với ngón đàn của mình mà rằng thế nhân không có người tri âm, nên thường chỉ nguyên tiêu ( rằm tháng giêng) mới một mình một thuyền lên chốn non xanh nước biếc mà tự mình thưởng thức ngón đàn. Một lần đang gãy điệu cao sơn, chợt có tiếng khen: Nga nga hồ chí tại cao sơn (tiếng đàn vòi vọi, hồn người đang gửi chốn non cao). Khi Bá Nha dạo sang khúc lưu thủy, lại nghe lời tán thưởng: Dương dương hồ chí tại lưu thủy ( tiếng đàn mênh mang hồn người đang gửi nơi dòng nước chảy). Bá Nha giật mình vội mời người nghe đàn xuống thuyền đàm đạo, đó là một tiều phu tên gọi Tử Kì. Hai người trở nên nghĩa tri âm. Về sau Tử Kì mất, Bá Nha đốt luôn cây đàn mà ngón lưu thủy cao sơn cũng thất truyền từ đó.

Lại chuyền Trần Phồn -Từ Trĩ.

Trần Phồn rất quí Từ Trĩ, nên đóng giành riêng cho bạn chiếc giường, khi Từ Trĩ đến, Trần hạ giường mời bạn ngồi, Từ về, Trần lại treo giường lên. Sau Từ Trĩ mất, Tràn Phồn đốt luôn chiếc giường.

Cụ Nguyễn Khuyến khi khóc bạn mình là Dương Khuê có nhắc đến tích này:

Giường kia treo cũng hững hờ

Đàn kia gãy cũng ngẩn ngơ tiếng đàn.

Việt Nam ta có lẽ tình tri kỉ tiêu biểu nhất là câu chuyện Lưu Bình Dương Lễ.

Dương Lưu là bạn thân, cùng học một thầy. Dương cần cù chăm chỉ nên thi cử hiển đạt. Lưu còn ham chơi nên hỏng. Dương thương mà giận bạn nên khi Lưu đến thăm nhà bèn giả lạ mà không tiếp. Lưu giận trở về nuôi chí học hành. May gặp người con gái thương chàng tình nguyện nuôi chàng ăn học. Lưu quyết chi học hành nên sau đỗ đại khoa, sang chào Dương Lễ bụng những muốn nhắc lại chuyện bội bạc cũ thì đã thấy người con gái nuôi mình ăn học đã ở đó rồi, mới hay là Dương sai vợ đến lo lắng cho mình. Tình tri kỉ lại đậm đà hơn xưa.

Nhàn rỗi kể tích xưa, mới thấy tiêu chuẩn người xưa cao thâm thật, mà cũng nhiêu khê thật. Song vậy mới là người xưa. Thôi thì mỗi thời đại có vốn văn hóa của mình, hơi đâu mà nệ cổ, nhưng lẽ nào không rút tỉa được đôi câu! Thúc Nha cùng Quản Trọng là hiểu người bằng đức vị tha, Bá Nha với Tử Kì là tri âm cùng chí hướng, Trần Phồn đãi Từ Trĩ là đãi bạn bằng cả lòng trân trọng. Còn đến như Lưu Bình Dương lễ thì là chí cốt tình thâm, đến cả vợ cũng không gần bằng được! Ngẫm người nay không thể là người xưa, song trong giao du lòng hướng về những chuẩn mực nguyên tắc cũ ắt tình càng thêm bền mà tình càng thêm trọng vậy.

Trân trọng gửi chút tâm tình cùng bằng hữu!

.

Nguyễn Tấn Ái.

Tôi Viết Văn

Tôi viết văn không mong cầu sự nổi tiếng, khi cuộc đời này người ta đang ra sức tung hô cho những giả trá lọc lừa, những vật dục bản năng, và cả những phù phiếm bán mua sống sượng

Tôi viết văn như thể muốn lật tung bao tấm đắp để lộ ra những chấy rận, bọ giòi

Tôi viết văn như muốn tạo ra một thứ độc dược cấp tính xịt vào mọi ngóc ngách tối tăm ẩm thấp tận hang cùng ngõ hẹp

Để tận diệt muôn nghìn mối mọt bọ sâu đang gặm nhấm dần đến mục ruỗng lương tri nhân cách một chữ NGƯỜI

Cho dù bao kẻ đang vỗ tay cười chế nhạo tôi khùng điên mơ những điều không tưởng, quá xa xôi khi cán cân cuộc đời mãi nghiêng về mãnh lực vật chất, hư danh

Cho dù quanh tôi có rộ lên bao lời mỉa mai giễu cợt, hằn học chê bôi, thậm chí những hòn đá to đang sẵn sàng ném vào tôi bất cứ ở đâu và bất cứ lúc nào

Cho dù những gì tôi nói chỉ là một hạt mưa bé tẹo rơi giữa một vùng hoang mạc khô cằn nắng cháy

Cho dù sẽ một ngày tôi nằm chết còng queo bên vệ đường không một ánh nhìn thương xót, không một manh chiếu nhỏ nhoi

Thì tôi cũng vẫn viết

Vẫn luôn viết những gì tôi hằng chiêm ngẫm

Và tôi tin

Rất rất tin

Rằng đâu đó trong những nhốn nháo, nhố nhăng, dặt dẹo những hình thù, vẫn lặng lẽ những dây leo NHÂN THIỆN

Mỏng manh

Cần mẫn

Bám vào những cột đá rêu phong mốc thếch

Bám vào những thân gỗ khẳng khiu sứt sẹo sù sì, những vẫn vươn thẳng chọc trời trong đơn lẻ

Như một vốc hạt mầm tung theo gió, may có hạt rơi vào nơi đất ẩm

Lặng lẽ nảy mầm

Lặng lẽ chồi xanh

Tồn tại và sinh sôi

Thành một đóa hoa tim đỏ chói

Thành một quả tâm nhân ngọt lịm

Theo ngọn gió lành tỏa đến nơi nơi

Cho những đau buồn, khổ lụy dần vơi.

.

Đàm Lan

Những Người Mặc Áo Blu Trắng

Hồi còn nhỏ, nó ước mơ trở thành một nữ bác sĩ. Đơn giản vì nó thích màu trắng và đặc biệt thích khoác lên mình chiếc áo Blu-trắng mà nó hằng yêu thích mà thôi.
*****
Năm nó 16 tuổi-cái tuổi tràn đầy yêu thương, mơ mộng, cái tuổi mà tất cả nữ sinh trong trường được mặc áo dài thì nó lại làm bạn với chiếc giường bệnh. Nó đã phải nhập viện vì cơn bệnh đau tim hành hạ quằn quai. Niềm mơ ước được mặc áo dài, được mặc áo Blu-trắng trong nó đã dập tắt. Nó đã đánh mất niềm tin, hi vọng và mất tất cả. Nó đã đánh mất sự hồn nhiên, thơ ngây của một người con gái. Vì thế nhìn sâu vào đôi mắt nó người ta có cảm giác cô đơn, buồn tủi. Đôi mắt ấy lúc nào cũng long lanh ngấn nước và sưng lên vì khóc nhiều. Hằng ngày đứng trên sân thượng của bệnh viện, nhìn những dòng người đổ xô vào trường rồi lại ra về, lòng nó đau thắt lại. Cái niềm mơ ước ấy tưởng như nhỏ nhoi, bình thường với những đứa bé khác thì với nó rất lớn lao và cao cả.
Nó nhìn những đám mây lững lờ trôi trên bầu trời và cảm thấy cô đơn và tuyệt vọng. Nó thấy mình như những đám mây trắng kia trôi mãi trôi mãi mà không biết sẽ về đâu. Có thể một ngày đám mây kia sẽ tan và nó sẽ lìa xa cuộc đời này thì sao??? Tim nó đau nhói. Nó bật khóc. Nó siết đôi bàn tay nhỏ bé của mình và cầu nguyện :Thượng Đế ơi! Giá như chỉ một lần thôi con được mặc áo dài, mặc áo Blu mà con hằng yêu thích là đủ lắm rồi! Một làn gió bấc tràn về, hơi ấm lành lạnh bao trùm toàn thân, nó co ro lại trong tấm áo len mỏng manh và cảm thấy tê buốt. Nó nghĩ rằng cái bệnh viện này sẽ là nơi mình sống cả khoảng đời còn lại. Nghĩ đến đó, tự nhiên tim nó quặng đau, nó quỳ xuống khóc nức nở. Từ phía sau, một bác sĩ tiến lại gần bên nó. Người bác sĩ ấy phụ trách phòng bệnh này. Ông ta dìu nó đứng dậy, trò chuyện:”Mọi thứ mới chỉ bắt đầu, cháu hãy luôn nghĩ về phía trước thì tâm hồn mình sẽ cảm thấy thanh thản hơn. Cố lên con gái! Bác tin nhất định cháu sẽ chiến thắng bệnh tật…” Nó như không tin vào thính giác của mình nữa. Hai từ“Con gái” sao mà nghe tha thiết đến vậy! Đã từ lâu lắm rồi nó mới có cảm giác như được sống…Cái ngày người ta bỏ nó vào cô nhi viện, cuộc đời nó đã rẽ sang một hướng khác. Nó không biết cha mẹ mình là ai, và cũng chẳng bao giờ hỏi. Có chăng nó chỉ tưởng tượng được khuôn mặt cha mẹ nó trong mơ mà thôi. Từ khi biết nó bị bệnh tim người ta chuyển nó đến bệnh viện để theo dõi. Nó nghe theo dù biết rằng không một loại thuốc nào chữa được căn bệnh quái ác này. Nó hiểu…
*****
Bây giờ, nó cảm thấy hạnh phúc hơn, vì biết rằng cũng còn có người quan tâm, lo lắng cho nó. Như một ánh sáng dịu kì sưởi ấm trái tim, nó không còn có cảm giác cô đơn lạnh lẽo nữa, nó đã tin yêu vào cuộc sống. Thật ấm áp diệu kì!!! Người bác sĩ ấy không chỉ đến với nó bằng tấm lòng “lương y như từ mẫu” mà hơn nữa là một người cha quan tâm, chăm sóc mỗi khi nó cô đơn, tuyệt vọng. Và đây, nó đã biết cười, lạc quan vào cuộc sống. Nó đã nhận ra vẻ đẹp lung linh của cây bằng lăng trước sân mà từ trước đến giờ nó chưa biết dù chỉ là một cái nhìn. Một nhành hoa rung rinh trước gió cũng đủ để làm nó mỉm cười thật nhẹ. Giờ đây nó hiểu rằng nó ao ước trở thành bác sĩ nhưng không phải chỉ để được mặc áo Blu-trắng…Nó muốn đem niềm tin hi vọng cho những bệnh nhân. Nó muốn cứu người-một ước mơ cháy bỏng.
Một cơn gió lạnh thổi qua nhưng nó không co ro nữa mà như thách thức cùng cái khắc nghiệt của thời tiết.
*****
Năm nó 18 tuổi-cái tuổi người ta trải qua ngưỡng cửa của Đại học thì nó phải đối mặt với ca phẫu thuật quan trọng của cuộc đời. Sự sống-cái chết chỉ trong gang tất. Nó sợ mình sẽ lìa xa cuộc đời này, lìa xa cái ước mơ khát khao, cháy bỏng mà nó đã nuôi dưỡng bấy lâu nay…
Trước khi làm phẩu thuật, người bác sĩ ấy đã trò chuyện cùng nó một đêm, vẫn câu nói cũ:”…Cố lên con gái. Bác tin nhất định cháu sẽ chiến thắng bệnh tật…” Nó cười, bác sĩ cũng cười theo. Chiếc xe lăn đẩy nó vào phòng mổ. Cánh cửa từ từ khép lại. Hi vọng…
*****
Thế nhưng cái điều không may đã đến với nó. Ca phẫu thuật thất bại. Bàn tay nó rơi xuống giường bệnh. Trước khi nhắm mắt, nó đã nói “Cảm ơn bác sĩ-những người mặc áo Blu-trắng đã cho con niềm tin và hi vọng…” Người bác sĩ ấy cầm đôi bàn tay lạnh ngắt của nó. Nó tắt thở…Ngoài kia trời bắt đầu mưa, càng lúc càng nặng hạt. Nó đã đi, mang theo bao ước mơ vẫn còn dỡ dang…….
*****
(Hậu truyện: Sau khi cô bé ấy ra đi, người bác sĩ tìm đến phòng cô, dọn dẹp mọi thứ và tình cờ phát hiện ra quyển nhật kí. Lật từng trang giấy ông thấy những dòng chữ nghiêng nghiêng, vụng về. “Chắc nó viết trong cơn đau dây mà!” Có một điều kì lạ là tất cả trang giấy đều nhòe đi. Ông ta cũng hiểu lí do…
“Ngày… tháng…năm…
…Con cảm thấy cô đơn và tuyệt vọng vô cùng…Khi biết rằng mình bị bệnh tim, con đã khóc, khóc rất nhiều đến nỗi hai mắt con sưng lên và bị đau một tuần liền…”
“Ngày…tháng…năm…
… Cảm ơn bác-người cha thứ hai của con. Cha đã thắp sáng ngọn lửa trong trái tim con, cho con niềm tin và hi vọng. Cha đã đến bên con, đỡ con đứng dậy khi con gục ngã trước bệnh tật…”
“Ngày…tháng…năm…
…Cha ơi, hôm nay là ngày cuối cùng con được ở bên cha. Con biết căn bệnh này không thể cứu chữa được nữa. Thế nhưng con vẫn hi vọng vì con luôn ghi nhớ những lời cha đã nói với con…
Cha ơi, nếu con không qua được ca phẫu thuật này thì xin cha giúp con thực hiện điều ước cuối cùng. Con muốn tặng đôi mắt mình cho những bệnh nhân cần nó. Vì con biết rằng họ cũng cần sự sống và ánh sáng. Con hi vọng họ sẽ giúp con thực hiện những ước mơ vẫn còn dỡ dang…”
Người bác sĩ ấy ngã quỵ xuống đất:Tại sao Thần Chết lại nỡ cướp con đi, lìa xa cuộc đời này? Tại sao Thần Chết lại không cho con được một lần mặc áo dài, áo Blu-trắng?…Tuy con chưa thực hiện ước mơ của mình, chưa khoác lên mình áo Blu-trắng nhưng con đã trở thành một người bác sĩ rồi đấy!Vì con có một trái tim nhân hậu và ấm áp…

.

Nguyễn Phạm Hải Dương

Lớp 10 A 4-  PTTrung Học  Quế Sơn

Những Dòng Vô Tận

Ta đứng bờ bên này nhìn sang bờ bên kia nước cuồn cuộn chảy!  Ta đứng bờ bên kia nhìn sang bờ bên này dòng nước quá lênh đênh!  Quay lại nhìn cuộc đời  thật kỹ thì dòng nước nào đã xô đẩy ta tới nơi đây?  Có phải hết dòng này rồi tới dòng khác ta vẫn còn lênh đênh trên sóng nước mà ngỡ rằng mình đã hết nổi trôi, có bến đậu rồi, nay tìm sang bờ bến khác.  Ta ao ước được sang bờ bên kia để thoát ly đời hiện tại!  Người bên kia lại đang tìm bờ khác, có kẻ lại muốn quay về, luẩn quẩn loanh quanh vẫn một dòng sông đang du ta vào ngõ bí, không lối vẫy vùng – Càng đi càng xa rời mái ấm!

Đứng bên này nhìn sang bờ bên kia thấy khoảng cách chẳng xa vời và bờ thì hữu hạn − Nhưng cớ sao dòng trôi thì vô tận, đưa ta đi mãi mãi không cùng.  Bờ bên kia có phải niềm mơ ta mong đạt tới, nên dấy lên tâm thức chẳng lặng dừng.  Dòng nước trôi cuốn theo trăm ngàn hỗn độn, tâm thức chẳng an bình dắt díu muôn ức chuyện bồng bềnh quá-hiện-vị lai.  Gió vừa thổi, sóng vừa dâng thì nước chẳng quân bình, phá nguyên thể trong xanh như ngọc khiết.  Vừa khởi niệm là đã xa rời ChânThiệnMỹ, dấy lên bao phiền não ở trong lòng.

Hạnh  Phúc, Khổ Đau nhanh như làn chớp – Ý niệm đổi thay thì Địa Ngục, Niết Bàn hay Thiên Đường cũng gần trong gang tấc.  Vậy tại sao không dứt bờ bên này, bờ bên kia để dòng sông không còn là cuồng lưu, nước lũ.  Tại sao không dứt gió dậy trong lòng cho sóng không nổi, dòng trôi lắng bặt, nước trong vắt một màu, hòa trong nhất thể, để cảm được niềm vui đang rộn rã trong lòng.

Này sông, này biển, này núi, này đồi, này trời, này đất, này bờ, này bến, người người, vật vật biến đổi khôn lường, trăm muôn ngàn dạng, nhưng nào có liên hệ gì tới Tâm Không luôn sáng ngời bất động, chưa từng sinh mà cũng chưa từng diệt.

Đứng bờ bên này trông sang bờ bên kia, dòng sông vẫn cuồn cuộn chảy — dầu hữu hạn, dầu vô cùng – trước đó trong con mắt ngập tràn sương khói, thấy muôn ngàn cách biệt, lúc này đây sự sự giao hòa, đâu chẳng là Thiên Đường, đâu chẳng là Niết Bàn, cần chi phải xa vời tìm kiếm − Mây trắng trên cao, cỏ hoa dưới đất – đâu đâu chẳng hiển bày chân lý − Tâm cố tìm cầu, đất trời xa cách, chỉ trong đường tơ kẽ tóc, hố thẳm lại sa vào.

Ngã hay Vô Ngã đều là danh tự!  Có hay Không hai thể đều lìa – Lìa cả Cái Lìa — Tâm Không — Vô Trụ.  Đó mới chính là Chỗ Không Cùng, ngữ ngôn đạo đoạn.  Còn gì phải nói, phải bàn, phải trông, phải ngóng.

Đó chính là Đạo, là Chân Như, là Niết Bàn, là Phật Tánh – Hay chính là Chân Nhân, Thượng Đế…  Gọi sao cũng thấy dư thừa!  Chỉ cảm nhận một điều là Thương Yêu – Bình Yên – Trí Tuệ, ba thể không lìa — Sóng chính là nước, nước chính là sóng — Không có gì cách ngăn – Và niềm vui vẫn dâng tràn trên sóng nước…
.

Từ Phong

Cảm tác theo câu thơ” … Bờ hữu hạn mà dòng trôi vô tận…”

( Nguồn: Thiền viện Đại Đăng)

Tết Miệt Vườn

Không khí bắt đầu từ những gốc mai ấy đấy. Khoảng giữa tháng Chạp là người ta dứt lá cho mai và sau đó, cành nhánh trơ trụi của nó có cái gì trọng đại sắp bắt đầu.

Một gốc mai ở giữa sân, đó là nhu cầu, thói quen và cũng là biểu hiện của văn hoá và may mắn. Ngày thường, mai chỉ là loại cây xanh uốn nắn được, nhưng ngày tết, ánh vàng và sức nở tưng bừng của nó mới thật bất ngờ. Những nhà có cụ ông nhìn vào rất dễ biết, vì gốc mai của họ được chăm sóc công phu, trông chúng y như một ông chủ điệu nghệ: tỉa gọt đấy nhưng vẫn xù xì một cách phong sương và khí phách.

Nước trong sông rạch đầy dần sau mỗi con triều. Đã qua mùa lụt, phù sa đã nằm sâu ở vị trí mà thiên nhiên đền bù cho con người, nước trong vắt leo lẻo gọi là mùa nước bạc. Thế rồi, cùng với thứ gió se se ngọn dừa, với màu nắng tươi như mật loãng, với tiếng trống lân sập sận chuẩn bị, Tết đã áp sát một bên.

Thật ra, Tết đã đến rục rịch đến từ sau mùa gặt, khi lúa hạt đã vào bồ nhường sân cho những chiếu bánh phồng san sát. Tuần bánh nhộn lên trước lúc đưa ông táo về trời và kéo dài cho tới ngày giáp cuối. Nếp hạt hoặc khoai mỳ (sắn) sẵn trong nhà, xôi chín lên trong nước cốt dừa rồi đưa vào cối, những chiếc cối của thời gạo giã được giữ lại chuyên cho bánh phồng. Cả xóm thức liên miên cùng với nhịp chày và tiếng giỡn hớt thả cửa của cánh chị em đi cán bánh vần vông. Đấy là dịp duy nhất họ quây quần bên nhau náo nức với cái gì đó rất chung nhưng hoàn toàn không giống với việc cấy gặt ngoài đồng. Cánh đàn ông cũng bị dựng dậy thay phiên cầm chày, trong lúc chờ đến lượt, họ lặng lẽ hút thuốc, thỉnh thoảng độp vào câu chuyện ngồi lê của cánh đàn bà bằng những câu đùa độc địa khiến con nít cũng bị lôi cuốn ra khỏi mùng. Thế là chúng biến thành cánh chạy bánh đắc lực từ người cán tới người phơi bánh. Không có loại việc nào lôi kéo được tất cả mọi người như việc làm bánh phồng.

 

Đã nhìn thấy vết thâm quầng đáng yêu trên mi mắt các bà các cô. Nhưng nào họ đã thôi trò thi đua bánh mứt. Nếu các đức ông coi việc chăm sóc cửa nhà, mai kiểng, lân pháo là nghĩa vụ đối với Tết thì cánh đàn bà ra sức làm sống lại nghề bánh khéo đã từng mai một bởi chiến tranh. Bánh kẹp cuốn ống ngậy hương vị nước cốt dừa nầy, bánh gatô cải biên đúc bằng khuôn mỏng hình trái tim nầy, bánh thuần nướng trong nồi cát này, bánh bưa kem đường nàỵ.. để đề tài bánh trái sẽ đậm đà hương vị thăm hỏi nhau của cánh chị em trong ba ngày Tết, để tếng khéo đồn xa”, để được “tết thì tết cả xóm”.

 

Còn có một loại bánh dân tộc không thể thiếu với người miệt vườn. ấy là bánh tét cải tiến từ bánh chưng thời Nguyễn Huệ thần tốc trên lưng ngựa. Đòn bánh tét là lễ với tổ tiên, là chữ hiếu với cha mẹ, là nghĩa thày trò, là miếng điểm tâm sáng ngày mồng một, là quà quê cho con cháu ở xạ Gói bánh tét không dễ vì không phải ai cũng đặt đúng cái nhân đậu mỡ ở giữa và phải niềng sao cho hai đầu cân nhau và các nuộc lạt bóng lên tăm tắp. Qua đòn bánh, người phụ nữ nhà đó được xem xét, không chỉ việc khéo vụng mà còn xem có nền nã, chặt chẽ hay không bao giờ ra bánh, người ta cũng treo thành sào cạnh bồ lúa trông thật ấm áp. Có nhà còn gói thật nhiều bánh, ngâm chúng trong nước sạch để ra giêng ăn dần.

Vẫn còn thiếu nghiêm trọng nếu như Tết ở miệt vườn chưa có mét dừa, thứ vật liệu cây nhà lá trời mênh mông. Dừa được chọn kỹ như thể chọn dâu: dừa cứng, mứt có mùi dầu, khô và vô duyên, dừa ướt, mứt ỉu, ăn thấy chán. Những nhà có thẩm mỹ tinh tế thường chỉ pha vào mứt hai màu, hồng phấn và trắng tinh, trông chúng gợi cảm như thiếu nữ. Chưa đủ, chỉ mỗi thứ mứt dừa thì hộp mứt tết sẽ nghèo nàn lắm, vì vật họ còn thi nhau làm mứt bí, mứt me, mứt cà, mứt gừng, mứt khế, và cả những thư tưởng không thể nào thành mứt được như trái khổ qua (mướp đắng) chẳng hạn. Cầm chúng lên, dù thực khách là gã đàn ông kiêu ngạo, bất cần hay chai sạn cũng phải mềm lòng trước sự kỳ diệu của đôi tay, khối óc và tâm hồn người đàn bà.

Thời gian đã chạy bứt lên khiến con người lao muốn đứt hơi theo nó. Người ra chợ, quả cây ngũ sắc đầt ắp ghe thuyền, tiếng máy đuôi tôm dào dạt bờ sông. Người ở nhà gấp rút đưa tất cả những thứ cần giặt giũ ra sông, tiếng đập chiếu trên mặt nước âm âm nghe thật thúc hồi. Có tiếng réo nhau vào hội, cứ mươi nhà thì hùn nhau vật một con heo sẵn trong chuồng của nhà ai đó, ai không tiền mặt cứ việc đưa thịt về ăn tết đã, ra năm tìm cách tính sau. Trẻ con bưng bê gì mà xuôi ngược hấp hởi vậy? Thì ra, nhân ngày áp chót, người ta tranh thủ đưa biếu nhau những thứ quả chỉ có ở vườn mình để sau ngày ba mươi thì không ai động đến cây và trái nữa, chính là để chúng được yên lành hưởng chọn lộc xuân như con người .

 

Bữa cơm chiều ba mươi thật hệ trọng với từng nhà như khắp mọi nơi trong đất nước. Chỉ khác là tổ tiên luôn được ở trong vườn nhà, vì vậy, trước khi rước ông bà vào mâm cỗ thì nấm mộ phải sạch cỏ, phải khang trang. Bận rộn đến mấy, nghĩa cử này thường không được chậm trễ và, khi nén nhang cong trên bàn thờ, con cháu mừng hơn được vàng vì thế là ông bà đang về đấy, đang phù hộ cho con cháu đấy, nhất định năm mới sẽ may nhiều dữ ít. Như con người vừa được an ủi.

 

Công việc của cánh đàn bà nào đã xong. Trong ánh lửa bập bùng từ nồi bánh tét bên góc sân, còn phải quét sân trước sân sau để ra ngoài mồng thì đố dám động chổi. Còn phải tắm táp cho lũ nhỏ để chúng được ngủ trong mùi vải mới. Trong ý tưởng trẻ thơ, tối giao thừa được mặc quần áo mới thì năm sau sẽ mau lớn.

 

Cuối cùng việc nhà cũng phải chấm hết. Trong mệt mỏi ngọt ngào, các bà các cô mang đèn dầu xuống bờ sông, giấu chúng vào bụi cây để hé ra ánh sáng mập mờ, ấy là bữa tắm chậm rãi nhất, long trọng nhất của họ trong vòng mấy trăm ngàỵ Họ ngụp sâu trong nước mát, nhẩn nha giữa qúa khứ và tương lai, bởi tâm tư họ đang bước đến giao thừa. Họ bước lên, quần áo tóc tai cẩn trọng trong căn nhà bỗng như mới bừng lên, trên chiếc gối còn thơm mùi xà bông mùi nắng, bên cơ thể thơm tho của lũ trẻ, họ thả lưng thư giãn một cách trang nghiêm. Có biết bao điều ập đến, biết bao nỗi buồn được tiễn đưa và cũng biết bao mơ ước được gọi dậy, ấy là lúc họ tẩy trần đầu óc và tâm hồn vốn bình dị của họ.

Rồi bước chân tời gian như vừa khởi động và đang tràn sầm sập qua xóm vắng. Người già dậy trước bật hết đèn lên, chốc sau đã nghe mùi bánh phòng toả ra từ bếp lửạ Giao thừa bao giờ cũng phải có phồng trên bàn thờ. Không khí bắt đầu ngầy ngà khắp xóm trẻ con bật dậy sà ngay vào trò chơi pháo chuột, như chùng chưa hề chợp mắt, còn các cụ bà thì lần ra sân bái lạy đủ bốn phương tám hướng. Đêm đen sóng sánh, cây trong vườn trầm mặc và con sông như bát ngát rạ Có cái gì đang dừnglại trong mỗi con người, bịn rịn ngậm ngùi, rưng rưng. Buổi giao thừa ở quê thường không có mấy truyền hình, người nhà ai nấy tụm vào quanh ông bà mình nghe chuyện xửa chuyện xưa chờ cho nhang tàn để đưa lộc từ trên ban thờ xuống bắt đầu nhấm nháp. Bấy giờ người ta mới thấm mệt như có cái gì đó ghê gớm xuyên qua, xâu chuỗi người ta lại và cũng đặt người ta vào vòng quay chóng mặt nhưng vô cùng thú vị.

 

Sáng mồng một nhà nào cũng dậy muộn, trừ một vài người lớn phải cũng kiến cho ông bà. Trẻ con lăng xăng với bộ quần áo đẹp nhất, nhẩm trong đầu những câu chúc thọ người lớn sao cho được khen và được cả tiền lì xì. Xống áo thanh niên bắt đầu chộn rộn đường quê, cũng chừng ấy mẫu mã thời trang thị thành, chỉ khác là màu nổi hơn để chứng tỏ với chung quanh sự hiện diện của mình. Người đứng tuổi ra đường vào buổi xế, bấy giờ rượu mới là thứ được việc để người ta nhìn nhau thoải mái sau bao nhiêu va chạm ngày thường, để những câu chúc nhau cháy đượm.

 

Mồng hai Tết mới thực sự là ngày của hỉ xả. Thường người ta góp nhau sắm lân sắm trống từ rất sớm, mỗi xã một đội. Người thủ vai lân phải khoẻ, phải có bước nhảy mang tinh thần thượng võ, còn ông địa thường là cậu bé con sôi nổi, cũng có khi là một bà goá có tính chọc trời khuấy nước. Cả xóm được một ngày vui, một ngày cười, cả lân, cả địa thường được thưởng rượu để bước chân tròng trành hơn.

 

Ngày mồng ba đánh thức mọi người dậy sớm như nhau. Sau khi cúng tất niên bằng chú gà giò, người ta săm soi bộ chân nó để xem thời vận và treo nó ở hàng hiên để khoe với hàng xóm. Cũng là ngày bọn trẻ đổ ra đường khệ nệ mang lời chúc của gia đình và bánh trái đến mừng tuổi thầy cộ Phong tục cổ truyền ấy đã làm cho ngày cuối cùng của dịp tết bừng lên một lần nữa, thiêng liêng rộn rịp không kém gì ngày ba mươi vừa qua.

Hết Tết, xóm ấp rã rượi một cách ngọt ngào như cô dâu sau tuần trăng mật. Đó là sự kỳ diệu mà tổ tiên và thiên nhiên cùng bạn tặng để mỗi năm một lần con người trở lại với giá trị hằng của mìn: thanh sạch, vị tha, giao hoà và mơ ước.

.

Dạ Ngân

 

Mỗi năm, Thiên Chúa giáng trần

Mỗi năm một lần  mùa đông về.

Thế giới ấm lại với những lời chúc mừng, con người xích lại gần nhau hơn. Mùa Giáng sinh.

Lời chúc mừng không dành riêng cho ai, không chỉ cho những môn đồ của Chúa, lời chúc cho con người.

Sáng danh Thiên Chúa trên trời

Bình an dưới thế cho người thiện tâm.

Hãy nhìn ngắm gương mặt mùa Giáng sinh bằng đôi mắt văn hoá con người để mừng cho con người đã biết yêu nhau.

Không còn những cách ngăn, đố kị, những suy xét bảo thủ hay hồ đồ vì thiển cận. Không còn những miệt thị kém cỏi và thù hận.

Thiên Chúa đến đem một con đường cứu rỗi, người tin Chúa đón nhận bằng đức tin.

Thiên Chúa đến đem tình yêu, loài người đón nhận bằng văn hoá không giới hạn. Dù bạn là ai, là tín đồ của đức Thích Ca, là môn đệ của đức Mô Ha Mét, hay bạn là môn đệ của chính tri thức của mình, chỉ tin vào mình thì bạn vẫn cứ ấm lòng mỗi khi nhìn cây thông noel mùa đông, phải không?

Vì sao? Không chỉ là một trào lưu, bởi trào lưu chỉ xuất hiện rồi mất đi trong một thời gian nhất định, mà mỗi năm một mùa Thiên Chúa giáng trần.

Vì sao? Vì dù tin hay không tin, ta vẫn cứ nhận ra rằng Chúa đến để nhắc nhở con người tránh xa tội lỗi.

Chúa Jê- Su phán: Ngươi không thể làm tôi Đức Chúa Trời lại làm tôi mọi cho ma môn nữa.

Ma môn là gì? Là đam mê của mắt, là ham muốn của đời, là hỉ nộ ái ố.

Có khi nào ham mê tiền bạc đến mức bạn luôn nhức đầu với hàng đống kế hoạch làm ăn mà không một phút nghỉ an? Có.

Có khi nào bạn yêu danh dự đến luôn đau khổ vì lo tìm cách bảo toàn danh dự? Có.

Có khi nào bạn ham danh vọng đến bạc tóc vẫn còn trăn trở vì ở đời chưa kịp để lại một tiếng thơm? Có.

Hay có khi nào bạn yêu người đến tuyệt vọng vì lo sợ mất người? Có.

Hay người thân bạn ra đi, rồi bạn nhận thấy đời sống trở thành vô nghĩa? Có.

Những ham mê tích cực? Đúng thôi, song ta đã sai vì đã quá đà, đã làm tôi mọi cho những gì không mãi mãi.

Và sai lầm của mỗi chúng ta là đã xem những gì hạn hữu là mãi mãi.

Và ta đã đau khổ một cách tích cực!

Mỗi năm một lần Thiên Chúa vào đời để nhắc nhở chúng ta buông bỏ những gánh nặng cuộc đời.

Bạn hãy chúc cho mình bình an, thanh thản với những gì được và chưa được trước khi mang lời chúc an vui đến cho những người thân, đó mới là ý nghĩa tích cực nhất của lời chúc mừng Giáng sinh.

Và tôi cũng chúc cho tôi một Giáng sinh nhận được sự phiếu trắng từ Thiên Chúa trước khi chúc bạn một Giáng sinh vui vẻ!

.

Nguyễn Tấn Ái

Nghề Ươm Ước Mơ

Mười hai năm em cắp sách đến trường nếu tính cả 3 năm học trường mẫu giáo , chừng ấy năm em cùng đi trên một con đường ấy nhưng cứ 3 năm, 5 năm, 4 năm năm một em lại đi trên 3 hướng khác nhau như ba ngã rẽ lớn của cuộc đời tôi. Trong 3 ngã ấy em đều được đưa đến cả 1 thế giới học vấn bởi những người thầy, chính điều đó giúp em trưởng thành hơn từng ngày.

Như một cái cây cần người nông dân chăm sóc, như một ngôi nhà cần người thơ xây nên, em cũng cần người thầy uốn nắn. Vẫn trên con đường đến trường, em cảm nhận được từng làn gió thổi vào mặt, em tưởng như thầy cô đến với đời em như một cơn gió, mang ước mơ em bay xa. Người ta bảo rằng làm nghề giáo viên chi cho khổ chỉ như người lái đò sang sông, chở người qua sông rồi họ cũng quên mình. Đã thế lương thì ít, suốt ngày chỉ có bảng và phấn thật là nhàm chán. Nhưng đối với thầy đó là một nghề đẹp đẽ. Em biết chứ, chỉ qua từng ngày thầy đến lớp giảng bài, em có thể cảm nhận được tâm huyết của thầy qua từng tiết học, những lời giảng ấy nghe sao mà ấm áp, thầy đã truyền vào trang vở của em những bài học, cho em thấy khát vọng dạy người, ươm mồng mống cho tương lai của thầy. Dù  thời gian sẽ trôi nhưng thầy, một người lái đò thầm lặng, vẫn cầm lái vững chác lái đoàn thuyền qua sâu cập bến tương lai. Thầy dạy em kiến thức, thầy còn dạy em cách làm người, thầy đã cho em một ước mơ..Em biết rằng cuộc đời thầy đã, đang và sẽ chở nhiều người qua sông nhưng có mấy người quay đầu lại nhìn thầy. Đã bao mùa bàng rụng là, đã bao mùa phượng nở hoa đỏ rực, tùng lớp học sinh hết ra rồi lại vào ngôi trường nhưng thầy vẫn ở đó, vẫn say sưa với bài giảng của mình, thầy vẫn truyền nhiệt huyết với chúng em. Thầy cô đã làm cho em rất nhiều nhưng dường như em còn chưa đền ơn đựơc Em chợt thấy rằng mình dường như cũng chỉ là một người qua đò.

Thầy dạy em thời gian là vàng là bạc, cần phải quí trọng nó nhưng dường như em đã lãng phí nó rồi, em bị vùi sâu vào cái nhịp sống này rồi dường như lại quên đi những điều quí giá nhất. Tốc độ của thời gian  sao nhanh quá, đến nỗi em cũng ngỡ ngàng. Rồi đến khi ấy em mới nhận ra mình đã bỏ lỡ nhiều điều, đời học sinh đâu chỉ có học, còn có bạn bè, trường lớp và nhất là thầy cô. Em biết rằng chính thầy là người em biết đến sau cha mẹ, ông bà, họ hàng mà có thể trước cả bạn bè, thầy chính là người bạn đầu tiên khi em bước vào một ngôi trường mới, thầy ân cần chỉ bảo từng chút một cho học sinh, thầy kiên trì, nhẫn nại giạng bài cho chúng em hiều. Cuộc đời thầy thật kì lạ, em tưởng như thầy là một phép mầu kì diệu đến với đời em. Phép mầu ấy mang lại cho em rất nhiều thứ.

Chính vì vậy mà em cảm ơn và xin lỗi thầy nhiều lắm.

.
Nguyễn thị Nguyệt Linh
Lớp 9 trường THCS Phan Chu Trinh

Buôn Ma Thuột

Buồn Vui Chuyện Nhà Giáo Và Tuổi Học Trò

Trong quãng đời học sinh phổ thông có biết bao nhiêu chuyện vui buồn mặc dầu đời học sinh chan chứa bao sự hồn nhiên, vô tư và trong sáng.

Tôi vẫn chẳng thể nào quên được một câu chuyện buồn xảy ra cách đây cũng khá lâu , khi tôi về trường dạy học được mấy năm .

Đó là năm tôi chủ nhiệm lớp Chín , phần lớn các em là học sinh vùng nông thôn , chỉ duy nhất có  em Lê Trung Nam(lớp phó học tập) là con em cán bộ Nhà nước.Nam khá thông minh, lanh lợi và hài hước .Dáng người cậu bé này nhỏ nhắn , giọng nói trong trẻo, âm sắc cao vút (có lẽ là lúc bấy giờ cơ thể em chưa phát triển hoàn chỉnh , nói cách khác là em vẫn chưa vượt qua tuổi trăng rằm chăng?)

Cùng học chung lớp có em Nguyễn Thị  Quỳnh .Chẳng hiểu sao mà Nam và Quỳnh như mặt trăng với mặt trời ,Nam ghét Quỳnh  ra mặt ? Thời bấy giờ Quỳnh là cô bé xét về diện mạo tuy không xinh xắn như vài cô bé  khác trong lớp nhưng mặt nổi trội của em là có năng khiếu về văn nghệ. Em từng dẫn chương trình nhiều buổi biểu diễn Văn nghẹ của trường và để lại khá nhiều ấn tượng trong giới học trò. Các đợt tập dượt tôi đã lập được một đội văn nghệ và cử em Quỳnh làm đội trưởng.Em cũng là lớp phó phụ trách văn thể mỹ và  đã có nhiều đóng góp cho phong trào Đoàn thanh niên. Em từng dẫn chương trình nhiều buổi biểu diễn Văn nghẹ của trường và để lại khá nhiều ấn tượng trong giới học trò  nhưng lực học của em lại không đều nên chỉ xếp kết quả chung là Trung bình. Bù lại em lại có thiên hướng về các môn xã hội mà nổi trội nhất là môn Ngữ văn.

Được biết Nam đã từng xoẹt hộp quẹt để phóng hỏa làm cháy tóc Quỳnh, rồi sau đó còn xé vở của Quỳnh khi Quỳnh phản ứng về những trò đùa nghịch của Nam. Đó  là việc làm dại dột mà theo tôi nhìn nhận bây giờ là “vô nhân tính” – tuy vẫn biết rằng tuổi trẻ con vẫn chưa hết bồng bột, nông nổi. Không suy nghĩ thấu đáo, không tính đến hậu quả mọi việc, mọi trò quậy phá tai ác… thường là đẳng  cấp  thứ ba (Nhất quỷ- Nhì ma- thứ Ba học trò là thế !)

Chưa hết, cậu ta còn viết những lời thô tục lên bảng để nói xấu, rồi chửi rủa Quỳnh bao lời lẽ hết sức thô tục ! Tồi tệ hơn, khi chuẩn bị kết thúc năm học, trả sách cho Nhà trường , chẳng hiểu sao mà cậu ta còn vu khống rằng Quỳnh đã tráo đổi bìa sách thay cho ruột một cuốn sách khác (gọi là “treo đầu dê bán thịt chó”).

Nỗi  oan ức  như  trời  giáng , nhiều bạn bè đã thanh minh cho Quỳnh, em  đã khóc hết nước mắt để thanh minh rằng em không hề làm vậy.

Ấy thế mà, mỉa mai thay ! đáng trách thay!  tôi lại tin Nam  mà không phải là Quỳnh, tôi còn trách móc Quỳnh là thiếu trung thực (?!?).

Khi lớp tổ chức buổi liên hoan chia tay, Quỳnh không có mặt mặc dù Quỳnh vẫn nạp tiền liên hoan cho lớp,Quỳnh làm giấy xin phép nghỉ v à  gửi lại tôi qua một học sinh khác( lí do Quỳnh có đám giỗ mãn tang ông ngoại !?       Mãi sau này tôi mới nghĩ ra đằng  sau lí do Quỳnh không dự buổi liên hoan, buổi gặp mặt cô giáo và bè bạn  năm học cuối cùng do tôi chủ nhiệm l ại  chuyển sang một  hướng  kh ác ( Quỳnh không tự ái mà là vì Quỳnh xấu hổ khi tôi và một số bạn vẫn cố hiểu lầm Quỳnh là người gian dối và Qu ỳnh quyết đòi lại bằng  được  danh dự và sự công  bằng )

Rồi một ngày, sau  khi chúng tôi nhận quyết định đi làm công tác thi tốt nghiệp, thầy Hiệu trưởng đã gặp riêng tôi và trao đổi

-Có một học sinh lớp cô là Nguyễn Thị Quỳnh,chính hôm lớp cô tổ chức liên hoan đã đến gặp tôi kể cho tôi nghe mọi chuyện mà bao lâu nay em âm thầm chịu đựng. Nào chuyện em bị một bạn cũng là một lớp phó phụ trách học tập chuyên hà hiếp: chuyện em bị  phóng hỏa đốt tóc, chuyện bị xé vở, rồi còn nhiều chuyện mà suốt mấy năm học qua em đã phải câm nín trong lòng. Mãi hôm nay, bức xúc nhất vẫn là chuyện trả sách giáo khoa cho Nhà trường ( thời bấy giờ trường chúng tôi có chủ trương xây dựng tủ sách giáo khoa dùng chung cho học sinh nhưng sách cũng thiếu trầm trọng ) em mới có dịp gặp tôi để báo lại vì em bảo cô chủ nhiệm không tin em, không để em được thanh mính.

Ồng Hiệu trưởng im lặng hồi lâu, rồi tiếp :

-Em Quỳnh vừa nức nở vừa báo cho  tôi trong tâm trạng ấm ức về chuyện hiện tượng trà trộn sách giáo khoa ở lớp cô. Cô xử sự thế nào chứ tôi không tin học sinh Quỳnh này có thể làm chuyện đó vì trông em rất chân chất, thật thà.Vả lại, một khi một học sinh đã trực tiếp gặp Hiệu trưởng mà không phải là Giáo viên chủ nhiệm là cả một vấn đề vì cô thấy đấy, học sinh ở đây rất rụt rè , hiếm thấy em  nào dám đến gặp Hiẹu trưởng

Rồi ông nói tiếp :

–   Cô Lương à, là một giáo viên chủ nhiệm liên tục hai năm với đối tượng học sinh của nguyên  một lớp , lẽ nào cô không hiểu tâm lí tuổi học trò ? Đã có khi nào cô có cách nhìn thiển cận ,chủ quan cho rằng mọi học sinh học khá, giỏi đều không có những góc khuất ? Cô hãy đặt vị trí mình là học trò bị oan khuất đi ! Đã bao giờ cô nghĩ rằng vì oan ức , không giãi bày được  mà học sinh đó có thể làm liều, tự sát ?

Tôi vẫn chăm chú nghe ông nói :

– Cũng may là “Trời xui Đất khiến” thế nào mà em Quỳnh đã đến gặp tôi và tôi đã cho em niềm tin, tôi đã hứa với em sẽ làm rõ việc này để minh oan cho em !

Ông hiệu trưởng lại ôn tồn:

-Tôi còn biết được em Quỳnh đã gặp cô Nga , cán bộ thư viện xin tìm bằng được cuốn sách – mặc dù cuốn sách đó tôi tin là học sinh khác đã cuỗm mất rồi mà biết đâu thủ phạm lại chính là em Lê Trung  Nam “cả vú lấp miệng em”, đã là người “đánh cắp thừa thế” ?

– Vâng…  ạ ! – Tôi bàng hoàng đáp lại .

– Tất cả mọi sự việc không quá trầm trọng nhưng đã cho mỗi chúng ta một bài học, chắc cô hiểu ý tôi ? – Ông nói.

Tôi không biết nói gì thêm , lòng tôi nặng trĩu những trở trăn và thổn thức, day dứt, đàu óc tôi đeo đẳng bao suy nghĩ mông lung …và ngẫm lại thấy mình thật vô cùng đáng trách khó c ó thể tha thứ !

Cũng  may mà tôi đã không hạ bậc hạnh kiểm (Tốt) của Quỳnh và không phê điều gì  quá đáng gây  bất  lợi cho em  vào Học bạ …

.

CưMgr ngày 18 tháng 11/2010

Thịnh Hoa (KQ)

Hoài Niệm Về Lũ

Cho đến bây giờ, khi đầu đã hai thứ tóc, mắt đã kém dần nhưng những kỉ niệm buồn thương vẫn đeo bám tôi mãi mãi , không dễ gì dứt khỏi tâm can. Nhất lại là cứ mỗi dịp mùa lũ lại trở về, trái tim tôi lại càng thổn thức.

Tôi vẫn còn nhớ như in, những năm đầu thập kỉ sáu mươi của thế kỉ XX, gia đình bố mẹ tôi đang ở vùng bãi, gần bờ sông Lam, lúc bấy giờ tôi khoảng chừng 4 tuổi , lũ lụt tràn về, nước dâng ngập trắng cả ruộng đồng , nhà cửa. Bố mẹ tôi phải chuyển  tất cả đồ đạc lên chạn (sàn gỗ- thường để cất lúa má và các vật dụng khác), mọi sinh hoạt của gia đình đều ở trên đó . Là trẻ con, hồn nhiên, ngây thơ, vô tư, trinh nguyên như tờ giấy trắng, nào biết đến cực nhọc là gì ? Chỉ biết rằng được ăn ngủ, rồi xem người lớn nấu cơm trên chạn thì thích thú, nào đâu hiểu được như bây giờ kia chứ ? Lại nữa , khi nước đã rút dần, mực nước  khoảng  chừng ở mắt cá chân thì “được” lội bì bõm trong nhà ,ôi chao là thích thú, mặc cho bố mẹ đang hì hục lau dọn nhà cửa, khắc phục hậu quả Thiên tai, mặc cho ai lòng lo ngay ngáy vì lại “điệp khúc đói “như năm nào!

Nghe mẹ và các chị kể lại, hồi sinh tôi ra mẹ không có cơm đủ ăn, đói kém nên nhà hàng xóm bới khoai chuối ở mảnh vườn ngay trước nhà tôi và thương tình cho mẹ ba củ để luộc ăn , mẹ mừng kinh khủng – khoai chuối là loại khoai chủ yếu trồng để chăn nuôi, thân và  lá thì để cho trâu, bò ; củ non và rễ thì đem giã rồi nấu cho heo, củ già hay củ bánh tẻ thì để người ăn, công bằng mà nói món  khoai này ăn ngon và chắc bụng : vừa bùi vừa ngọt, có nhiều  tinh bột ; về sau này người ta trồng để thu hoạch rồi chế biến thành miến dong nhưng ở quê tôi hầu như không còn trồng nữa vì hiệu quả kinh tế không cao vả lại đất đã bị xói mòn, bạc màu, không còn thích hợp cho loại cây này.

Tôi còn nghe kể rằng cũng vào năm tôi ra đời vì đói quá  mà chị gái kế tôi bị xỉu lả đi, cứ nghĩ mà lòng đau như xé !Không khóc nhưng nước mắt tôi cứ tràn ra ngập bờ mi,cổ họng nghẹn ắng và sống mũi lại cay cay!
Để tránh lũ lụt hàng năm vẫn xảy ra , bố mẹ tôi dời nhà cách bờ sông dễ chừng vài ki-lô-mét, là vùng đồi núi, nước lũ chẳng bao giờ đến. Chỉ có thể ngập ở vùng đồng thấp ruộng trũng.

Tôi lại nhớ những ngày tôi đã học Tiểu  học, thấy lũ tràn về đồng ruộng thì tôi cùng bọn trẻ con rủ nhau đi xem và nghịch nước. Có cả người lớn cũng đi để quan sát và so sánh với mực nước những năm qua . Chẳng có gì ngờ nghệch ngu ngốc hơn lúc bấy giờ, xung quanh có bao nhiêu người mà miệng  tôi cứ bô bô :
– Bay ơi ! Tau (tao) thích lụt !
Tôi vẫn chưa quên có người (hình như là ông Tí Trới ) đã  trừng mắt và  mắng chửi :
–  Tổ cha bay ! Đồ con nít! Ngu chi ngu rứa , kẻ nậy (người lớn) thì lo cháy rọt (ruột), còn thích nỗi chi mà thích, thích cái trôốc (đầu) cha bay hử ?Có một người đàn bà (hình như là  bà Năm Chín) biết điều thì chống chế :
– Chớ  chưởi quân nớ (tụi nó)  mần chi ? mấy đứa  hắn có biết chi lo lắng, chỉ thích lội  bì bõm dưới nước là ưng, rứa mới gọi là con nít.
Rồi bà còn nói mát với bọn trẻ  chúng tôi :
– Ừ, các con cứ lội cho lắm rồi ít bữa nọc nác (nước)  ăn chân rồi mà khóc.
Quả thật, hồi đó sau những lần nghịch nước, tôi thường hay bị ngứa và loét ở các kẽ ngón chân, càng gãi càng ngứa vậy mà vẫn cứ thích lội nghịch nước với đám trẻ nít trong làng, lại còn chơi trò té nước để ướt hết quần áo, và như thế…về nhà lại “được xơi” trận đòn nhưng chả chừa được lâu bao giờ, đâu lại vẫn vào đấy .

Mãi sau này, khi tôi đã không còn cái  tuổi lội nước để nô đùa nữa,đã bắt đầu ý thức được nỗi gian truân của những  người ở vùng nông thôn,đã cảm được cái khốn khổ mỗi khi lũ tràn về  thì bắt đầu đã biết nghĩ, biết nhận ra sự đau xót trước sự đe dọa của Thiên tai và một phần có cả nguyên nhân từ phía con người – khai thác rừng bừa bãi làm cho môi trường sinh thái bị ảnh hưởng không nhỏ.Tôi thầm nghĩ :
– Hồi nhỏ sao quá ngu ngốc , khờ khạo, ai lại đi thích lũ lụt bao giờ ?
Rồi tôi lại tự trấn an:
-Thế mới là  trẻ con ! Trẻ con chứ đâu phải người lớn thu nhỏ !

Mốc lịch sử của cơn đại hồng thủy năm 1978 đã ghi lại trong tôi một kỉ niệm đau thương mà cho tới mãi sau này, khi tôi đã tự lập cuộc sống tôi vẫn không thể nào quên! Sinh thời, ông cụ thân sinh ra tôi vẫn nhắc lại và mắt ông ngân ngấn lệ, lòng vẫn canh cánh nỗi day dứt thương con. Ngày đó nước ngập mênh mông , trường tôi phải nghỉ học cả hàng chục ngày ròng. Những ngày nghỉ học, mấy chị em tôi lên hòn rú Động Trường để khai hoang, vừa để có đất trồng sắn,trồng chè xanh vừa lấy gộc cây rành rành để đem về làm chất đốt, sưởi ấm về những ngày đông rét cắt da cắt thịt mỗi khi có gió mùa Đông Bắc tràn về. (Rành rành là một loại cây mọc hoang dại ở vùng đồi trung du, rất chịu hạn hán, khi đã lên cao gần  một mét, người ta cắt về, phơi khô, rũ sạch lá để  làm chổi quét thay vì quét chổi tre, lá của nó trong y học được chế thành dược liệu.)

Sau lũ, nhìn cảnh làng quê tiêu điều, lúa và hoa màu ngoài đồng mất sạch sành sanh.Nhiều gia đình lâm vào cảnh đói deo đói dắt. Lũ bạn và chị em tôi đi mót khoai lang nhưng vì khoai củ  non và nhỏ, không bở mà lại nhão, nên mẹ  lại luộc xong rồi đem dùng  đũa  xéo cho nát ra để xúc vào đọi (chén hay bát) cho dễ  ăn. Hễ quên đi thì thôi, còn nhớ lại, tôi lại không sao tránh khỏi ngậm ngùi… .

Thời gian cứ thế trôi qua, rồi một lần nữa tôi lại chứng kiến lũ lụt lớn hơn cả cơn lũ năm 1978.
Đó là vào năm 1989, khi con gái tôi hơn ba tuổi.Tôi đang ở nhà tập thể, một căn nhà tạm bợ lợp lá cọ, xung quanh che bằng phên nứa. Chỉ cần một cơn bão đi qua là có thể tốc mái và căn nhà sẽ sập bất cứ lúc nào. Lúc bấy giờ đang thời bao cấp, hầu như mọi cán bộ, giáo viên, công chức Nhà nước đều phụ thuộc vào đồng lương, mua  lương thực, thực phẩm bằng tem phiếu, sổ mua hàng, nếu để quá hạn , sang tháng khác là mất tiêu chuẩn, coi như nhịn đói. Mưa lũ kéo dài, gần hết tháng  không thể đi mua gạo và nhu yếu phẩm, chúng tôi vô cùng lo lắng.Gạo đã hết  mà người thì bị cô lập giữa biển nước mênh mông.Chúng tôi đã phải luộc củ mì non,  quả chuối tiêu đã già để ăn độn vào mọi bữa ăn cho qua những ngày vừa đói, vừa lạnh. Để khỏa lấp thời gian lo lắng, tôi lại nhặt nhạnh tất cả những mảnh vải vụn, những áo quần cũ ngồi cắt may, khâu sửa, chắp nối lại thành quần áo cho con…

Và rồi, những năm sau vẫn lũ lụt nhưng không nặng nề như hai cơn đại hồng thủy mà tôi đã ý thức được và đã từng nếm trải. Nói đúng hơn là tôi   không còn có dịp để chứng kiến tận mắt và chịu đựng vì tôi đã chuyển  công tác xa quê.

Sau này,  khi tôi có dịp về thăm quê, cả nhà ôn lại chuyện cũ, bố tôi  vẫn than thở:
– Cha nghĩ mà thương mi ngày đi học cuối cấp III (nay gọi là Trung học phổ thông), năm học 1978 – 1979 , là năm thi tốt nghiệp, thi đại học mà ăn uống cũng chả ra hồn, đi học ở lại trưa chỉ có khoai lang củ  , hay sắn củ  (củ mì ), đến nỗi đi thi học sinh giỏi tại huyện Đô Lương vẫn mang thêm bột sắn khô để làm bánh ăn độn, mỗi lần nghĩ là cha lại xót xa. Ông còn nói:
– Đúng là cái số mi khổ, ngay từ khi lọt lòng đã gặp cảnh túng đói rồi và sau này cũng vậy , may mà  kiếm được cái nghề ổn định để thoát khỏi cảnh bận hàn chớ mấy đứa cùng lứa với mi ở nhà lấy chồng rồi mần  ăn cực khổ lắm  nà !

Rồi…câu chuyện chị gái tôi bị đói và xỉu lả năm nào  lại được nhắc lại, và- tôi thấy cả bố mẹ tôi đều lặng im hồi lâu, môi mấp máy, tôi hiểu tâm trạng bố mẹ tôi nên đành lảng sang  chuyện khác.
Những chuyện đó giờ đây với tôi đã trở thành dĩ vãng, mảnh đất cao nguyên nơi gia đình tôi cư trú chẳng thể bị lũ lụt bao giờ. Cuộc sống của một giáo viên xưa nay vốn dĩ  thanh bần, chẳng có của ăn của để nhưng cũng gọi là ổn định, nếu biết cách chi tiêu thì không đến  nỗi nào- khéo ănthì no, khéo co thì ấm –  nhưng so với  những người  làm nông ở quê  tôi thì   còn sướng hơn nhiều.

Thế nhưng, cứ mỗi dịp lũ về  là lòng tôi lại rưng rưng kỉ niệm buồn thương, đau xót khi nghe những thông  tin, rằng chỗ này nhà ngập nước, người và tài sản bị lũ cuốn trôi; rằng chỗ kia có người mất tích…
Và … hôm nay đây, khi ngồi viết những dòng này, trái tim tôi vẫn nhói đau mỗi khi cập nhật những  thông tin, những hình ảnh tang thương , thiệt hại quá nặng nề ở các tỉnh miền Bắc Trung bộ rồi lại đến Nam Trung bộ bởi cơn lũ lịch sử lớn chưa từng có của hàng trăm năm về trước.

Tôi thầm ước ao có một phép mầu để có thể xóa đi mọi buồn đau, cứu vớt những thi thể nạn nhân để họ được sống an vui trở lại với gia đình, với làng xóm ,quê hương.

Máu chảy ruột mềm!

Cầu mong sao mọi người dân vùng lũ sẽ không gặp phải tai họa , sớm khắc phục những hậu quả và yên ổn làm ăn! Cầu mong những linh hồn của những nạn nhân bị lũ cuốn , những nạn nhân của chuyến xe định mệnh mang biển KS 48K- 5868 ngày nào sẽ được an trú thanh thản nơi chín suối và sớm được siêu thoát về cõi vĩnh hằng! Cầu mong con người ý thức được vai trò của việc bảo vệ và tích cực trồng  cây gây rừng để lấy lại được sự cân bằng sinh thái cho môi trường thiên nhiên; để Thiên tai không còn là mối đe dọa những con người vô tội! Cầu mong cho tất cả mọi người đừng vô cảm mà hãy giang rộng vòng tay Tương thân tương ái , Lá lành đùm lá rách, Thương người như thể thương thân… cưu mang , đùm bọc những người bị nạn, an ủi, chia sẻ, xoa dịu đôi phần nỗi đau, những tổn thất mà  họ đã phải gánh chịu! Cầu mong cho mọi người đừng mải vui chơi, chi tiêu, đầu tư quá mức cho những việc không cần thiết để dành tình yêu thương, san sẻ  phần nào gánh nặng mà mọi người dân vùng lũ đang phải oằn mình chịu đựng !

Than ôi !
Cầu mong…

Cao nguyên đất đỏ, tháng 11/2010

Khánh Quyên

( tác giả đã chỉnh sửa từ bài đã đăng trên trang LLĐLR)

Mời các bạn xem video clip ;

Thông Địệp Từ Miền Trung


 

Phiếm luận về mắt

So với các loài sinh vật hữu tình trên quả đất thuộc hệ Thái Dương này, đến hôm nay con người vẫn được đánh giá là loài thượng đẳng nhất do ở hình thái và tổ chức cơ thể tinh vi cũng như do có một đời sống tinh thần và tình cảm phong phú, trong một xã hội có tổ chức cao mà các loài vật khác không có.
Ở NGƯỜI, khuôn mặt có những nét đặc biệt, nhiều biểu cảm mà nổi bật là đôi mắt, một cơ quan cảm giác tuy nhỏ, nhưng lại có hồn và cần thiết nhất. Khi tiếp xúc với người khác, hai mắt của họ là cơ quan mà ta cảm nhận trước tiên; qua đó ta có thể đoán biết được tâm tư, tình cảm của họ nên người đời thường nói “con mắt là cửa sổ của tâm hồn”. Cũng có những cái được gọi là mắt nhưng không phải mắt vì không có chức năng nhìn như “mắt cá chân “ hay “mắt bão”. Mắt mà tôi sắp đề cập ở đây là mắt để nhìn, là đề tài được nhà khoa học, nhà văn, nhà thơ, nhà tôn giáo đề cập nhiều nhất. Với những kiến thức còn hạn hẹp, tôi chỉ dám ghi nhận một số nét về đôi mắt bởi bản thân không dám “múa rìu qua mắt thợ” so với nhưng người đã từng nghiên cứu trước đây, cũng như không dám lấy “vải thưa che mắt Thánh”!

MẮT DƯỚI CÁI NHÌN CỦA Y HỌC & DÂN GIAN

Là một cơ quan cảm giác, hình thành từ ống thần kinh ở tuần lễ thứ ba của phôi kỳ, dưới dạng hai túi thị nguyên thủy, phát triển và lồi dần về phía trước tạo thành võng mạc, thủy tinh thể và các thành phần khác của mắt. Mắt nằm trong hốc xương nhỏ phía trước của hộp sọ, vị trí ở 1/3 trên khuôn mặt, dưới vầng trán, ở trên và đối xứng hai bên mũi. Nhãn cầu người có các thành phần chiết quang phía trước, và võng mạc phía sau, được vận động bằng các bó cơ nhỏ cùng các dây thần kinh , cũng như được nuôi dưỡng bằng hệ thống mạch máu . Mắt là cơ quan chức năng của cái thấy, với hai mắt cùng nhìn nhưng tia nhìn lại hướng cùng một phía và tập trung trên vật thể trước mặt. Những hình ảnh nhận được lúc đầu, tuy là do hai mắt, hiện trên mỗi võng mô của mỗi mắt, nhưng sự cảm nhận về hình ảnh chỉ có một. Nhờ 4 bó cơ thằng [ trên, dưới, trong ngòai]và hai cơ chéo [trên, dưới] nên nhãn cầu được chuyễn động hướng về các phía, tạo ra những cái “liếc mắt đưa tình” hay những cái nhìn sắc như dao, ngọt như mía hoặc dịu dàng như “sóng nước hồ thu”. Nhờ mống mắt [Iris] là một lọai cơ vòng có những bó cơ co thắt và dãn nở, nên đồng tử mở to khi ngạc nhiên hay sợ hãi; thu nhỏ lại khi phản xạ tức thời với ánh sáng.. và nhờ các sắc tố ta phân biệt được người có mắt đen tuyền như hạt cườm, long lanh như hạt sương, xanh biếc như hạt ngọc ….Nếu lấy mắt ra riêng lẻ, để trên bàn phẫu tích thì làm gì thấy được thần sắc của mắt. Thần sắc này có được là nhờ mắt nằm trên khuôn mặt, được che chở bởi mí mắt trên và dưới, với hai hàng lông mi dài mịn,dễ thương. Thêm vào đó là hai hàng lông mày nằm trên bờ hốc mắt trang điểm thêm khiến mặt và mắt rất duyên dáng. Nhờ các thành phần này nên khi ta chớp mắt, lúc cau mày cũng làm cho mắt có nét xúc động, ngạc nhiên. Chỉ cần một chút chuyển động của cơ nâng mi, cái nhếch mép của cơ môi, rồi chính cái cơ vòng của miệng khi cười nụ hay tủm tỉm lại khiến cho đôi mắt có cái tinh nghịch, mĩa mai . Cũng nhờ cái đuôi của mắt biết cười, nên đôi mắt càng làm lung lạc con tim người đối diện, khiến người ta bay hồn, lạc vía, nhớ mãi đôi mắt mình suốt đời.

Mắt đã theo sát cuộc đời của mỗi người, từ lúc còn là mầm phôi thai, đến lúc sinh ra và cuối cùng nhắm mắt, trỡ về với cát bụi. Ngay cả khi còn trong bụng mẹ, bắt đầu ở thời gian 24 tuần, mắt đã biết nháy mắt khi giật mình, biết phản ứng lại ánh sáng của thiết bị quang học thăm dò và biết chảy nước mắt. Khi trẻ mới “mở mắt chào đời”, những người thân yêu cười rạng rỡ khi nghe tiếng khóc đầu đời, và mong thấy trẻ mở to đôi mắt thơ ngây; và cũng thật buồn cười, người ta lại khóc khi đôi mắt ấy sắp đi vào cỏi chết, lại phải cố vuốt mắt vì không muốn thấy đôi mắt ấy nhìn mình “trừng trừng”, hay xót xa nhìn thấy đôi mắt ứa lệ nuối tiếc người thân yêu giây phút cuối. Trong thời gian ở chốn bụi trần này, ngòai những lúc nhắm khi ngủ, đôi mắt người luôn mở to để nhìn biết bao sự vật, sự kiện, đã sống cùng cơ thể qua những ngày tháng vinh, nhục, thăng, trầm. Thật ra có nhiều khi đôi mắt cũng biết khôn khéo, nhắm lại hay mở hé nửa chừng; những lúc ấy mắt muốn con người tận hưỡng trọn vẹn cái cảm giác đê mê của nụ hôn say đắm. Trong Y học ngòai một số bệnh chuyên khoa về mắt, cũng có một số bệnh nội khoa được biểu lộ qua màu sắc và chức năng nhìn của mắt thay đổi. Có một môn khoa học tuy chưa được công nhận, chẩn đóan về mống mắt [Irisdology] dựa trên sự thay đổi về màu sắc và hình thái của mống mắt [Iris]. Vậy mắt là cơ quan cảm giác dùng để thấy, để con người quan sát và kiểm sóat môi trường chung quanh, giúp liên hệ trao đổi, đôi khi thay lời nói và tình cảm tâm tư nên dân gian thường hay gọi mắt là “cửa sổ để tìm đến tâm hồn” [Eyes are the window to the soul]

Người đời gán cho đôi mắt đủ mọi hình tướng, đủ mọi nét đẹp sắc sảo như mắt phượng, dịu dàng như mắt nhung, thơ ngây như mắt nai, hay xinh xắn như mắt bồ câu, hoặc vô tình như mắt ếch. Họ không quên gán cho mắt những nét dữ dằn như mắt sư tử, ghen hờn như mắt Họan Thư, gian ác như mắt rắn, mắt cáo, mắt lươn họăc lẳng lơ như mắt lá răm. Ngòai ra mắt còn biết soi mói như mắt cú vọ hay mắt không ngần ngại “dán vào người” các kiều nữ hấp dẫn của những anh chàng có đôi mắt Thúc Sinh. Tạo hóa và thiên nhiên cũng đặc biệt tặng cho mắt thêm tuyến lệ, nên mắt được rữa sạch, làm ướt mi; lúc thì long lanh ngấn lệ, lúc thì đau khổ lệ trào khi cuộc tình ngang trái.. Tóm lại tùy theo tâm tư, tình cảm của chủ thể có đôi mắt hay tùy theo sự cảm nhận của đối tượng, con người trên thế gian đã gán cho đôi mắt mọi thứ trong khi bản thân đôi mắt thì vô tội.

MẮT TRONG THƠ VĂN & TÔN GIÁO

Bên cạnh các nhà khoa học, các nhà văn, nhà thơ cũng tốn khá nhiều tâm tư, thời gian và giấy mực để nói về con mắt. Từ cái nhìn đầu tiên, bốn mắt trao nhau luồng nhỡn tuyến, tiếng sét ái tình sau đó chỉ còn lưu lại trong tâm hồn mỗi người cái hình ảnh dễ thương, tha thiết, dịu dàng của đôi mắt. Đôi mắt ấy từ đó đã theo ta suốt cuộc đời, dù xa cách ngàn trùng hay dù tình yêu không trọn vẹn tốt đẹp; “đôi mắt người xưa” vẫn còn hiện diện trong tâm trí ta. Có thể nói không sai là ở phụ nữ, khuôn mặt đẹp là cái nổi bật nhất, trong đó không thể quên vai trò của đôi mắt. Cổ sử Trung Hoa có nói đến bốn người đẹp nổi tiếng nhất là: Điêu Thuyền, Chiêu Quân, Dương Quý Phi, Tây Thi, đẹp đến mê hồn, đôi mắt quyến rũ đến nổi “khuynh nước, nghiêng thành” đem lại đổ vỡ các vương triều và đau khổ chết chóc cho nhân dân thời đó. Thế mà sau này có nhiều nhà văn, nhà thơ khi nói về cái tuyệt sắc vô cùng của giai nhân, cái quyến rũ ghê gớm của đôi mắt đã ca tụng mỹ nhân đến nổi “Tây Thi khiếp vía, Hằng Nga giật mình”.

Ca dao Việt Nam với những câu thơ dân gian mộc mạc cũng có đề cập đến đôi mắt rất nhiều:

Người khôn đôi mắt đen sì
Người dại đôi mắt nửa chì nửa thau
Trời sinh con mắt là gương
Người ghét ít ngó, người thương ngó hoài
Những người con mắt lá răm
Lông mày lá liễu đáng trăm quan tiền
 

Chín thương cô ở một mình
Mười thương con mắt có tình với ai

Mấy người con mắt ốc nhồi
Giỏi tài đánh vợ, đá nồi đập niêu

Ngoài ra còn có những câu ca dao đố rất ý nhị:

Con gì đuôi nó có lông
Trẻ già trai gái đều cùng mang theo

[đó là con mắt]

Có càng mà chẳng có chân
Có hai con mắt to bằng ốc bưu

[đó là cái kính mắt]

Trên tạp chí Y khoa, các hình chụp bệnh nhân hay trên các tranh ảnh nhạy cảm, người ta phải xóa đen đôi mắt vì sợ xâm phạm đến đời tư cá nhân. Trong một số tiểu thuyết hình sự có kể chuyện một vài kẻ sát nhân sợ bị ám ảnh hay sợ bị khoa học ghi lại hình ảnh mình trong mắt nạn nhân , nên đã nhẫn tâm móc mắt nạn nhân. Trong văn học miền Nam, nhà văn Thanh Thảo có tả “đôi mắt lạc thần” của nhà thơ Bùi Gíáng như sau: “Cả gương mặt của Bùi Tiên sinh như dồn vào trong đôi mắt lạc thần Đó là đôi mắt luôn nhìn quá. Dù Bùi Giáng đọc thơ, nói cười, múa hát thì đôi mắt ấy vẫn im lặng”.

Rải rác trong các truyện ngắn, truyện dài cũng đề cập nhiều đến đôi mắt của các nhân vật như “Loan mắt nhung” và của các người phụ nữ có sắc đẹp mê hồn , nhưng nói đến mắt với những tình cảm khác nhau thì chỉ có thơ và nhạc là nói về mắt nhiều nhất.

Nhà thơ Nguyễn Bính trong bài thơ “Mắt nhung” tả đôi mắt quý phái, tia nhìn dịu êm như nhung của người yêu như sau:

Người ơi cứu vớt tôi cùng
Dành đôi mắt đẹp cho lòng rất đơn !
Tôi còn mơ ước gì hơn
Hai tay người chắp phiến đàn cho tôi
Phải chăng tôi đã già rồi ?…
Đêm qua buồn quá tôi say
Đã mơ một giấc mơ đầy mắt nhung!


Và ông lại ví mắt nàng sáng long lanh như vì sao trong buồi chia tay:

Sao Hôm như mắt em ngày ấy
Rớm lệ nhìn tôi bước xuống tàu


Thi hào Nguyễn Du còn ví đôi mắt của Thúy Kiều như làn nước mùa thu và đôi lông mày như núi mùa xuân xanh thẳm [xuân sơn]:

Làn thu thủy, nét xuân sơn
Hoa ghen thua thắm, liễu hờn kém xanh

Còn nàng Kiều về sau được Từ Hải cảm phục, khen nàng có cặp mắt tinh đời:  

Khen cho con mắt tinh đời
Anh hùng đoán giữa trần gian mới già!
Một lời đã biết đến ta
Muôn chung nghìn tứ cũng là có nhau.

Lưu Trọng Lư lãng mạn hơn, trong bối cảnh của một đêm thu se lạnh; đôi mắt đẹp của người con gái được ông ví như dòng sông, còn mình như một con thuyền độc quyền chiếm hữu dòng sông,để một mình tung mái chèo khua động:

Vừng trăng lên mái tóc mây
Một hồ thu lạnh, mê say hương nồng
Mắt em là một dòng sông
Thuyền anh bơi lội giữa dòng mắt em….

Xuân Diệu hình dung đôi mắt ngọc của người yêu trong veo và buồn như hồ nước cuối thu:

Cuối thu vàng nước lên bờ
Nước non trong sạch ai ngờ thần tiên
Em cười đôi ngọc mắt đen
Nửa in sắc nước, nửa đan sắc trời

Nguyên Sa thì đề cao đôi mắt trong vắt, sâu lắng như khi nhìn thấy đáy sông:

Anh nhờ sông có nguyệt lạ lùng
Có trời lau lách chỗ hư không
Em tìm âu yếm trong đôi mắt
Thấy cả vô cùng dưới đáy sông.

Trong bài thơ “Tương tư” của nhà thơ Nguyên Sa, ông ca tụng:

Tôi không biêt rằng lạ hay quen
Chỉ biết em mang theo nghê thường
Cho nên đôi mắt mờ hư ảo
Cả bốn phương trời chỉ có em….

Còn nhà thơ Enxa-L-Aragon thì ví đôi mắt như mặt trời chiếu trong một vũ trụ sâu thẳm:

Đôi mắt em sâu xa khi nhìn vào
Anh thấy cả một mặt trời chiếu xuống
Chìm đắm cả con người tuyệt vọng
Đôi mắt em sâu xa đến nổi anh quên cả trước sau….

Nhà thơ Mùi Quý Bồng  nói lên tầm ảnh hưởng to lớn của tình yêu mà trong đó đôi mắt người yêu có mãnh lực đến nỗi chế ngự suốt cuộc đời mình như sau:

Chim trời mỏi cánh phiêu du
Ta đem chí lớn giam tù trong em
Mộng giang hồ đã nguôi quên
Vì em mắt biếc ta mềm suy tư…

M.Q.B

Còn nhà thơ T.G thì:

Mắt em là cả hồ thu
Tiếng em thánh thót như ru men tình
Ước sao chỉ có đôi mình
Nhưng đâu chỉ có chúng mình ước ao
Đêm nào ngước mắt trông sao
Cùng em ao ước nơi nào viễn du
Nhìn em đáy mắt hồ thu
Anh quên giấc mộng viễn du nơi nào

Mắt biếc[T.G]

Sully Prudhomme [1839-1907] cũng có những vần thơ Pháp lãng mạn không kém khi nói về đôi mắt như sau:

Bleus ou noirs, tous animés, tous beaux
Ouverts à quelque immense aurore
De l’autre côté de tombeaux
Les yeux qu’on ferme, voient encore

được Vương Ngọc Long phỏng dịch thật hay:

Ánh mắt huyền xanh đẹp dáng hồng
Bình minh vô tận vẫn hoài mong
Nồng say giấc ngủ trong mộ tối
Mắt nhắm nhưng mà vẫn ngóng trông

Riêng nhà thơ Hải Đà ca ngợi người mẹ với ánh mắt sáng như trăng rằm, chứa chan tình yêu thương con trọn vẹn, sắt son:

Mẹ như ánh mắt trăng rằm
Lệ từ bi chảy ngàn năm chẳng mòn
Vơi đầy đạo nghĩa sắt son
Tràn dâng biển Hạnh, ngập nguồn Tam cương

Đặc biệt Thiền sư Tuệ Sĩ với trí tuệ Bát Nhã, đã đem ánh mắt Bồ Tát nhìn đời, chấp nhận những đau khổ của cõi đời:

Ôi tiết nhịp thiên tài hay quỉ mị
Xô hồn ta lảo đảo giữa tường cao
Trưa dài lắm ta luân hồi vô thỉ
Đêm dài con mắt vẫn đầy sao

Nhờ có những vần thơ xúc cảm ca ngợi đôi mắt, nên các nhạc sĩ đã đưa nhạc quyện vào thơ khiến đôi mắt càng thêm trữ tình, thắm thiết….Nhiều ca khúc nổi tiếng ra đời được nhiều thế hệ ưa chuộng, điển hình như : Thu trong mắt em &Trong mắt em là biển nhớ của N. T. Miên- Nước mắt rơi của Phạm Duy,-Đôi mắt người Sơn Tây của P. Đình Chương-Đôi mắt người xưa của Trúc Phương- Mắt lệ cho người của Từ Công Phụng- Nắng thủy tinh của T.C.Sơn- Tình yêu mắt nai của Quốc Dũng…..

Trong tôn giáo, mắt cũng được đề cao, được chọn làm biểu tựợng của quyền lực như Mắt trong đạo Horus Thần Mặt Trời. Mắt Thượng Đế nhìn thấy xa mọi chuyện [thiên lý nhãn], chung quanh có hào quang bao bọc trong một hình tam giác đều [Eye of Providence] . Biểu tượng Mắt được Thánh Thất Cao Đài VN thờ phượng, tượng trưng cho trí tuệ, gọi là “Thiên Nhãn”. Đó là con mắt của Trời soi xét mọi ý nghĩ, hành vi của người, nhắc nhở làm điều hay lẽ phải, từ bỏ cái xấu, cái ác.

Mắt của hình, tượng Chúa Jesus, và của Đức Phật đều nổi bật ở dáng vẻ dịu dàng, thánh thiện với ánh mắt bác ái, từ bi nhìn xuống con người đang ngụp lặn trong khổ đau,sinh tử luân hồi….Dưới tượng Chúa vị tha, dứơi tượng Phật bao dung, những người đau khổ tìm đến quỳ lạy dưới chân Ngài, ăn năn hối lỗi cầu xin Ngài tha thứ. Người tín đồ cầu xin Chúa cho có được “con mắt đức tin” để thấy hình ảnh Chúa trong các tín hữu , hay cúi xin Phật cho mình có được một “con mắt quán chiếu” “ để thấy tất cả chúng sinh đều là Phật sẽ thành.

CÁI THẤY CỦA MẮT

Đôi mắt của người thế gian tầm thường cũng khác với đôi mắt của các nhà ngọai cảm. Họ nhìn lại sự việc của quá khứ, thấy trước đươc tương lai sắp tới và giúp thân nhân người chết truy tìm huyệt mộ… Họ thường tập trung nhìn vào một đối tượng nào trước mặt như hình cầu, chiếc đủa…hoặc có khi nhắm mắt lại, tập trung tinh thần ; rồi cho thân chủ biết điều muốn tìm. Đó là cái thấy của năng lực tinh thần mà không sử dụng hai mắt, đó là cái thấy siêu nhiên, thần giao cách cảm chỉ có ở một số người có khả năng liên hệ với những người ở thế giới vô hình. Đây là một hiện tượng khó nghĩ khó bàn, đang trong vòng tranh cãi, nghiên cứu mặc dù thực tế có những trường hợp đạt kết quả tốt.

Mắt là cơ quan để nhìn, để quan sát. Cái thấy của mắt phải đầy đủ các yếu tố duyên sinh. Trước hết cơ quan này [nhãn căn] phải tốt, đầy đủ cấu trúc thì chức năng thấy sự vật [nhãn trần] mới được đảm bảo, và ý thức từ cái thấy mới phát sinh [nhãn thức]. Bên cạnh nhãn căn, nhãn trần, nhãn thức yếu tố ánh sáng phải đầy đủ và khỏang cách tối thiễu, tối đa từ mắt đến vật phải được tôn trọng thì hình ảnh mới hiện rõ trên võng mô. Nhưng đặc biệt chúng ta phải có cái ý “muốn thấy” [tác ý] thì nhận thức mới phát sinh. Khi ta không chú tâm hay không có ý muốn nhìn, thì dù cho sự vật nằm ngờ ngờ trước mắt mà ta nào có hay. Do đó người đời vẫn thường trách nhau là “có mắt như mù”. Khi tâm hồn ta đã nguội lạnh, con tim ta đã khô như đá thì dù có một bóng hồng bước đến, ta cũng chẳng để ý và bình phẩm. Riêng trong cái khỏang cách vừa và đủ để mắt thấy tốt, vị trí nhìn [điểm đứng] cũng quan trọng không kém để ta quan sát sự vật một cách tổng thể, rồi sau đó phân tích một thấu đáo, ta sẽ có một nhãn quan, một ý thức về sự vật này . Trong trường hơp này cái thấy không chỉ đơn thuần là chỉ thấy, mà nó còn cho thấy “quan điểm”, cách đặt và giải quyết những vấn đề lớn của tư duy. Cũng cùng một vấn đề nhưng do điểm đứng để quan sát và do tình cảm, tư duy của riêng mỗi người mà ta có những quan điểm khác nhau. Do đó chúng ta không nên áp đặt quan điểm của riêng mình, bắt người khác phải chấp nhận. Tưởng rằng “cái thấy” đơn giản , nào ngờ khi phân tích ra có muôn vàn yếu tố liên hệ với nhau. Đúng là “trùng trùng duyên khởi

Cái thấy nói trên là cái thấy có ý thức, nhưng nếu tầm nhìn của mắt không được tự do, lại bị ép buộc, che chắn, hay phải nhìn qua lăng kính hoặc qua cặp kính màu thì “cái thấy” có thể biến dạng, hạn chế và ý thức sẽ bị thay đổi . Chuyện đời có nhắc đến con ngựa kéo xe chở khách, người xà ích sợ con ngựa khi được tự do hai mắt, sẽ nhìn ngang dọc, không tập trung và sẽ hỏang hốt nhảy dựng lên , rồi làm lật xe; nên trong bộ dây yên có thêm hai miếng da tròn che phía ngòai hai mắt của ngưa. Con ngựa này chì thấy mỗi con đường phía trước, chỉ biết và chỉ làm mỗi một việc kéo xe, chở khách. Con người cũng thế, nếu hai mắt bị che chắn, tầm nhìn không tự do, thì con người chỉ thấy được một chiều, không thấy cái gì khác. Rồi cũng qua những cặp kính màu xanh đỏ, vàng…hình ảnh mắt thấy cũng bị nhuộm màu, không phản ảnh chân thật sự vật vốn có. Những cặp kính màu theo nhà văn V.Đ.C, chính là những định kiến, những điều đã biết, đã nhận được trước đây của mỗi người, sẽ làm chướng ngại cho việc thấy, và nắm bắt chân lý. Triết học tôn giáo gọi đó là “sở tri chướng”, một trong những cái trở ngại mà người đời nên tránh.

Cái thấy của thế gian, thường bị ảnh hưởng bởi tham, sân,si, bị ngăn che bởi những tà kiến. Cái thấy của những Thánh nhân, của những đấng giác ngộ là cái thấy có trí tuệ mà người ta gọi là tuệ giác hay “tuệ nhãn”, vì không có các yếu tố tham sân si. Chưa hẵn những người có bằng cấp cao, có địa vị sang trọng trong xã hội mói có cái nhìn sáng suốt; chính những người có năng lực tập trung tinh thần lớn, chánh kiến trong tư duy, có nhiều kinh nghiệm trong cuộc sống, và nhất là có lòng độ lượng, bao dung, không chấp trước, không sân hận, không si mê thì những người đó mới có được cái tuệ nhãn cao quý.

THAY LỜI KẾT

Mắt thật sự là một cơ quan cảm giác tối cần thiết và quan trọng đến nổi để trả lời câu hỏi có tinh cách chọn lựa là giữa cuộc đời sang giàu, có địa vị nhưng bị mù lòa, với cuộc sống thiếu thốn nghèo nàn nhưng còn con mắt để nhìn thì con người sẽ chọn cuộc sống nào. Chắc chắn tất cả chúng ta chọn cuộc đời, dù nghèo nàn, không danh vọng nhưng còn được đôi mắt sáng. Người xưa thường nói:”muốn kiến thì nhờ nhãn, muốn thức thì nhờ trí”, và nhiều triết gia cũng khuyên phải tập nhìn đời bằng con mắt quán chiếu, tha thứ, thương yêu thì ý thức của chúng ta sẽ được sâu sắc và tình cảm của ta dịu mát, êm nhẹ, có lợi cho sức khỏe. Đó là con mắt trí tuệ, bác ái; con mắt Bát Nhã nhìn đời.

Con mắt là phần nổi bật trên khuôn mặt, nên nhiều người không ngần ngại tốn khá tiền để đi nhổ và xâm lông mày, uốn và nối lông mi; cũng như cắt mắt một mí thành hai mí, và tô kẽ mắt đủ thứ màu theo thị hiếu, sở thích của từng người. Chúng ta cảm ơn Tạo hóa, thiên nhiên, ông bà cha mẹ đã cho ta một giác quan THẤY tuyệt vời và chúng ta cũng có thể hảnh diện mình có đươc một “đôi mắt đẹp” để nhìn đời và ngược lại để đời nhìn mình. Điều này chỉ thực sự có ý nghĩa khi đạt được cả hai: hình thức và nội dung.
.

Vy Kính

( Ban Mai Hồng sưu tầm)

 

Đôi Mắt Người Sơn Tây – thơ Quang Dũng – nhạc Phạm Đình Chương- ca sĩ Đức Tuấn

Nắng Thuỷ Tinh – Trịnh công Sơn – Khánh Ly

Mắt Lệ Cho Người – Từ công Phụng – Tuấn Ngọc

Dọc Đường Phụ Nữ

Lang thang vui chuyện.

Mà phải kê khai trước rằng trong cái gia tài tinh thần vốn còm cõi của tôi, phần còm cõi nhất vẫn cứ là phần kinh lịch nhi nữ, để thể tất cùng nhau, tránh những ngờ vực chính đáng từ cái đầu đề vốn không mấy nhã này!!

Mà là dọc đường phụ nữ, chứ tuyệt không có ý phụ nữ dọc đường!

Người phụ nữ mà tôi để ý, để vừa kính vừa hãi, lại là nàng Kiều nổi tiếng tài sắc ai bì. Kính là kính cái đức hiếu để đời, ngẫm xem vào thời tiết trinh người con gái đáng giá nghìn vàng, mà nàng đắn đo đến “ dẻ cho để thiếp bán mình chuộc cha” thì cái sự hi sinh ngang bằng một dấn thân, một liều mình, một lìa bỏ, ngang như người chiến sĩ “ cầm ngang ngọn giáo vào ngàn hang beo” vậy! Là kính! Mà ứng xử ấy kể vào hàng đáng hãi. Quyết liệt ấy, chỉ nhẹ một phân lượng là đã rơi vào hàng nhẹ lòng kém đức!!! Kể cũng liều lĩnh quá chừng!

Ngẫm sau nàng hai gần hai trăm năm, người phụ nữ đại diện cho tam tòng tứ đức ( hình như là cuối cùng) là chị Dậu cũng thà bán con mà chẳng chịu bán mình! Miễn bình.

Nên chợt ngẫm giá mà mình mặc được cái cốt cách hào hoa phong nhã như Kim, thì tiết Thanh Minh năm ấy hẳn sẽ ngỏ lời chọn Vân làm vợ. Bởi đoan trang tốt nết như Vân thì thật là một thê nhi mẫu mực. Lại  được cái phúc có một bà chị vợ như Kiều để tiết nguyên tiêu kì đoan ngọ lại mời bà chị cùng bả tửu vấn nguyệt cao hứng đàm luận chuyện văn chương rồi lại cung kính tiễn chị về! Ờ, Kiều chắc tửu độ cũng khá đây, đã từng khi chén rượu lúc cuộc cờ mà! Với Kiều lòng ngưỡng mộ chỉ đến thế thời thôi. Thẹn!

Người thứ hai đủ dọa đến nhát thần hồn các bậc nam nhi hẳn là bà chúa Xuân Hương.

Kể từ nhi nữ xuân tình, dám lỏng then tạo hoá đón xuân vào cho đến khi mất hút vào cõi vô tăm vô tích cũng đã hai đời chồng, hai lần lẻ mọn,chưa một lần làm mẹ, ngẫm cũng tội tình. Nàng không có cái để tòng, với nàng, đức Khổng chừng vô kế khả thi trong lời giáo huấn: Tại gia tòng phụ, xuất giá tòng phu, phu tử tòng tử.

Không thọ đạo thánh hiền, mà nàng như cũng xem thánh hiền như quỉ thần kính nhi viễn chi, bởi suốt đời lập ngôn nàng chưa một lần ngạo cùng đức Khổng, ngoại lai nàng ngạo tất: Dạy lũ khoá sinh làm thơ, châm chọc sư sãi thánh thần, giẹo chân giễu tướng Tàu thất thế… Lại còn cợt người quân tử nặng bụng đồ thư đến nửa phần người thất thế với nửa phần thái giám.

Kính bái!

Trong danh sách nhi nữ của tôi còn một dấu khuyên đỏ cho bà Đặng Thị Mẫn, dòng dõi họ Đặng nổi tiếng thi thư làng Lương Đường tỉnh Hải Dương, vợ của đấng tú tài nỗi tiếng phong nguyệt tình hoài Trần Tế Xương.

Lặn lội một đời, cam chịu một đời, hi sinh một đời. Con nhà dòng dõi mà cam vì chồng hoá thành hàng tôm hàng cá, chịu tiếng đời mai mỉa, thật thà cũng thể con buôn, khôn ngoan cho lắm cũng phường lái trâu.

Thế mới hiểu Tứ Xương dù ác khẩu đến có lúc ví mình là chó ( Tế đổi làm Cao mà chó thế) mà cứ một mực nắn nót cho bà Mẫn thành hình tượng con cò lặn lội thật đáng yêu( lặn lội thân cò khi quãng vắng).

Bà Mẫn sinh được một gái, tên là Thục, tiếc rằng không đủ thời gian tiền của để thoả cái tâm huyết về quê Nam Định xin tham lĩnh gia phả dòng họ Trần, tìm xem cô Thục ấy rồi còn lưu giữ cái đức bà Mẫn đến mấy đời!

Trên là những gương mặt phụ nữ đã trở thành cổ điển. Ngẫm một điều không ngoa ngoắt mấy rằng lắm người trong lớp hậu sinh nhiều khi ngộ chữ, loạn chữ thành liều lĩnh mà ao ước dại có ngày sánh với một nàng đáng mặt như những hình mẫu của sách giáo khoa! Biết đâu cái mặt trăng kia cứ sáng rờ rỡ cốt chỉ lừa đời cho vui, kì thực nó khô không khốc, đố ai sống được với nó!

Đem công dung ngôn hạnh mà đo thì chừng nhiều khiếm khuyết đó.

Kiều khuyết cái công. Nên bị trạng Trứ mắng.

Người cổ nguyệt lại hỏng cái ngôn. Nhà nho mắng là con yêu nữ họ Hồ!

Kính cụ Ức Trai nên chẳng dám có điều vô phép, nhưng mách nhỏ rằng bà Thị Lộ được vua yêu hình như cũng làm cụ Nguyễn đau lòng thì phải, không dưng sao lại nhắn gửi “ ngoài ấy dầu còn áo lẻ, cả lòng mượn đắp hơi cùng!”

Bà Nguyễn Thị Hinh nhờ oai ông huyện Thanh Quan đã ấm cái thân, lại còn vượt phận dám khuyên xằng xử bậy để đến nỗi thân ông mang vạ! Thật chẳng chính danh. Chưa tại kì vị đã mưu kì chính.

Chao cái dân tộc văn hiến này, đã tạc nên người phụ nữ ngóng chồng hoá đá, lại dựng nên bà Trưng cưỡi voi bà Triệu cưỡi cá kình. Thật lắm điều ghê gớm! Tôi cũng tự hào về phụ nữ anh hùng, phụ nữ thi nhân, phụ nữ tài hoa của sách vở ngàn xưa để lại lắm, nhưng vẫn phải thật lòng nhắc nhỏ phe mình hãy cứ mê mê muội muội nhưng cũng khắc khắc mà tỉnh cái nhìn!

Lời ngay khó nuốt. Khéo tối nay gặp cơn ác mộng thấy bà Lê Chân dẫn một đoàn nữ binh về chỉ thẳng roi ngựa vào mặt mình mà mắng: Thằng này láo, quân đâu…

Tháng 10 ngày nghỉ.

Nguyễn Tấn Ái.

Má Hồng Một Thuở

Trời sinh làm kiếp má hồng

Là xui em những đèo bòng truân chuyên

“Má hồng” là nhũ danh cho một nửa thế giới. Một nửa thế giới ấy nếu thiếu đi sẽ là cả một đại họa, sẽ không thể tồn tại được một chu trình kiến vận của tạo luật, sẽ không còn cái gọi là sắc màu cuộc sống, ngắn gọn hơn, là không có cả nửa thế giới còn lại nữa. Nhưng một nửa thế giới vô cùng quan thiết này đã, đang hiện diện và tồn tại như thế nào ?

Bằng vào giới chức từ đấng thiên năng giao phó, những má hồng mặc nhận thân sinh nghiệp tại với bao nỗi thăng trầm đa đoan trúc trắc. “Má hồng phận bạc”. Không bỗng dưng mà nảy ra câu thành ngữ ấy. Nó đã dược chiêm nghiệm từ hàng nghìn hàng triệu mảnh đời liễu yếu tự đông tây kim cổ. Cho đến bây giờ và cho đến cả muôn sau, câu thành ngữ ấy vẫn luôn có một vị trí cố định trong thế giới người.

Vì sao lại bạc ?

Là bởi vì cuộc sống luôn đòi hỏi quá nhiều ở người phụ nữ. Cứ như đã sinh ra làm phụ nữ thì phải có nhiệm vụ chu toàn tất thảy mọi điều. Phải đẹp, phải xinh, phải duyên, phải giỏi, phải biết năng động, phải biết lo toan, phải biết dịu dàng, phải biết chu đáo, phải biết hy sinh, phải biết nhường nhịn, phải biết khoan dung, phải biết chịu đựng…Có quá nhiều cái phải, và thiếu bất kỳ trong những cái phải ấy thì cứ nghiễm nhiên như là có lỗi. “Phụ nữ gì mà…”. Lại một yếu tố đặc tính của tạo hoá, phụ nữ luôn sống theo cảm tính, lấy tình cảm làm căn bản sống, bao nhiêu khó khăn gian khổ gì cũng có thể cưu mang gánh vác được chỉ vì một chữ “Tình”. Trong khi đối tượng phối tác thì lại mang một đặc tính hết sức trái ngược “tham lam và ích kỷ”. Đây là vấn đề then chốt để bao nhân trần khổ ải chất lên tấm thân mỏng mảnh yếu đuối. Đôi lúc nghĩ tạo hoá cũng hết sức tinh vi khi sắp bày cơn cớ. Để bao mảnh đời mỏng manh yếu đuối ấy vẫn dẻo dai bền bỉ mà chống chèo qua sông to biển lớn nghiệt oan cũng nhờ vào một chữ “Tình” thăm thẳm.

Phần lớn phụ nữ thường đơn giản trong khát vọng. Họ chỉ mong có một cuộc sống bình ổn bên những người mà họ thương yêu. Họ luôn muốn đem hết khả năng sức lực của mình để mà lo toan chăm sóc chồng và con. Không hiếm khi họ bỏ quên cả bản thân, điều họ mong được đáp lại là tình cảm. Chỉ cần một hành động quan tâm nho nhỏ thôi, họ cũng đủ phấn khích và thoả mãn lắm rồi. Họ không nhiều tham vọng chinh phục những đỉnh cao nào cả. Họ lặng lẽ làm chiếc bóng, làm một thứ phông nền cho những bước tiến của chồng con, họ lấy niềm vui và sự thành đạt của chồng con làm hạnh phúc của mình. Và cũng không ít những người trong số này phải nhận lại những hồi đáp tệ bạc. Những “đối tác” cứ như tự cho mình nghiễm nhiên được thụ hưởng, mà không hề nghĩ rằng trong những thành quả mình có được một phần không nhỏ thuộc về những công sức lặng thầm kia.

“Chẳng lẽ không có đàn ông, phụ nữ không sống nổi sao ?”

Đó là câu có thể thốt ra từ khoảng 20% những người phụ nữ đủ mạnh mẽ cứng cáp để không phải phụ thuộc qúa nhiều một nửa của phía bên kia. Típ phụ nữ này thường là cái gai trong mắt đàn ông. Là bởi họ làm cho đàn ông không có cơ hội thể hiện cái gọi là nam tính của mình, không có có hội sở hữu hay ít nhất cũng tỏ ra được một chút oai phong. Trong con mắt của đa số đàn ông, phụ nữ không được phép thoát khỏi sự quyền chế của họ. Như một định lý bất biến ở cuộc đời này “Chân lý thuộc về kẻ mạnh”. Vì thế mà với đàn ông ít nhất cũng có đươc vài thế mạnh, mạnh về sức lực, mạnh về tiềm lực kinh tế, mạnh về quan niệm số đông xưa nay nghiêng ưu thế về họ. Để rồi đó đây trên trái đất này, vẫn luôn có rất nhiều những mảnh đời mong manh yếu đuối phải chịu sự khuất luỵ của kiếp “mà hồng phận bạc”.

Trên đời này không có gì là tuyêt đối, số đông không có nghĩa là tất cả, vẫn có một thành phần phụ nữ có được một đời sống êm ấm hạnh phúc thực sự. Thành phần này đương nhiên là đã có được những yếu tố then chốt của giới phái, họ cũng phải trải nghiệm gánh vác những trách vụ đặc trưng của tạo luật, nhưng điều quan trọng hơn, là họ nhờ gặp được những người đàn ông thực sự biết quan tâm, biết chung chia, biết tôn trọng và thương yêu dúng nghĩa, nhờ đó mà sự vất vả lo toan cũng giảm đi được ít nhiều. Chỉ có điều so với tổng thể thì con số này thật quá chênh lệch. Nên nhìn quanh nhìn quẩn vẫn thấy quá nhiều má hồng nhạt nhoà nước mắt, vẫn thấy nhan nhản những bất công đày đoạ, những gương mặt dàu dàu héo úa, những giọt nước mắt lã chã rơi trên những đôi tay gày guộc, những khuất chìm dồn nén xuống tận đáy lòng, những âm thầm gắng gượng mà đi qua mảnh đời phận bạc long đong.

Cách này hay cách khác, hình thức này hay hình thức khác, bối cảnh này hay bối cảnh khác, những má hồng vẫn dọc dài kiếp phận truân chuyên. Tác giả bài viết này thật lòng gửi đến một lời tri cảm những đấng mày râu đáng bậc trượng phu, đúng nghĩa chính nhân quân tử. Các vị đã làm cho những người phụ nữ của các vị cảm nhận được ý nghĩa về sự có mặt của họ trong cuộc đời này. Và cũng xin mong cầu phần nhiều những “nam nhi chi chí” khác, hãy sống xử một cách chân thành, có tình và tôn trọng hơn một nửa của mình. Cho dù một nửa của bạn ấy chẳng tài cán nổi trội, chẳng hương trời nước sắc, họ chỉ có một trái tim và một tấm lòng đã trao cả về bạn. Nếu tất cả những người đàn ông trên thế gian này, biết mình biết người một chút, thì chắc chắn những “má hồng” cũng sẽ không đến nỗi “phận bạc”. Nhân một ngày cho một nửa thế giới mỏng manh liễu yếu, xin gửi lời cầu chúc đến những chị em yêu quý của chúng ta thật sự có một ráng hồng hạnh phúc trên đôi má dẫu làn da đã tô đậm những vệt màu thời gian.

.

Đàm Lan

Nha Trang Mùa Thu

Thu rồi đấy. Biển Nha Trang thơ mộng hơn, dịu dàng hơn với những cơn gió thu nhẹ và nắng vàng óng ả. Biển chẳng bao giờ nổi sóng lớn. Những con sóng mềm mại cứ miệt mài xô bờ cát trắng tinh. Xa xa ngoài vịnh Nha Trang, những hòn đảo lớn nhỏ nằm xen kẽ. Biển Nha Trang nước xanh ngát. Nếu đủ sức khỏe và ưa mạo hiểm, bạn hãy thử một lần lặn biển xem sao! Bạn sẽ vô cùng thích thú và ngạc nhiên khi khám phá ra những rặng san hô phong phú, những loại sinh vật biển kỳ lạ. Hòn Mun, hòn Tằm, hòn Tre, hòn Chồng Vợ… sẽ đủ cho niềm yêu thích biển của bạn. Hít căng lồng ngực hương vị mặn của biển, thấy cuộc đời mới tuyệt làm sao. Mùa thu rồi nhưng Nha Trang vẫn ngập tràn sắc đỏ phượng vĩ, tím ngắt bằng lăng và vàng rực của một loài hoa có tên Hoàng Yến. Dường như thiên nhiên đã quá ưu đãi cho Nha Trang. Khí hậu, sự thanh bình và nguồn tài nguyên vô tận.

Hòn Tằm

Tôi đến Nha Trang trong một chiều thu phủ đầy nắng như thế. Cái nắng ở Nha Trang rực rỡ đó nhưng chẳng hề gay gắt. Nắng và gió cứ nhẹ nhàng mơn man trên má, trên tóc. Nắng trải dài trên bãi cát mênh mang. Bạn có thể thả hồn mình vào sóng, vào gió. Bạn có thể nằm dài trên cát, phơi mình dưới cái nắng thu Nha Trang quyến rũ.

Chợ Đầm

 

Đường Trần Phú

Rời những hòn đảo nên thơ, bạ n trở về với trung tâm thành phố. Bạn có thể ghé qua chợ Đầm sầm uất, dạo chùa Long Sơn tĩnh mịch, tháp Bà Pon agar uy nghiêm hay lang thang trong khuôn viên nhà thờ Núi rộng lớn. Bạn cũng có thể tìm kiếm cảm giác khác lạ khi thả bộ tới một khu phố nhỏ ven theo các con đường Hùng Vương, Trần Quang Khải…Người Nha Trang gọi đó là phố Tây, bởi ở đó có nhiều người nước ngoài sinh sống. Phố Tây ở đây tuy không náo nhiệt như phố Tây Phạm Ngũ Lão ở Sài Gòn nhưng lại mang những nét đặc trưng riêng, với nhiều màu sắc văn hóa, điều đó đã tạo nên một phố Tây rất Nha Trang. Phía cuối đường Trần Phú, con đường đẹp nhất Nha Trang, trên ngọn đồi Hoa Phượng, khu biệt thự Bảo Đại nằm khép mình lặng lẽ. Tên gọi thật của đồi hoa phượng là núi Chụt, nhưng vì ở đó có rất nhiều hoa phượng nên được gọi một cách dân gian như thế. Đứng từ đó nhìn xuống, bạn sẽ thấy sững sờ trước vẻ đẹp của biển cả. Biển xanh, cát trắng, những cánh buồm nhỏ xinh, tạo nên một bức tranh sơn thủy hữu tình.

 

Mảnh đất dễ mến sản sinh những con người dễ mến. Đến Nha Trang, bạn sẽ được tiếp đón chân thành bởi những tấm lòng hiếu khách.

Mùa thu về, phố biển Nha Trang càng trở nên đằm thắm. Bãi cát dài mịn màng ôm ấp từng con sóng. Đến một lần để rồi mộng mơ cùng nắng, cùng gió, cùng vẻ hiền hòa của biển cả và lòng người Nha Trang.

.

.

.

Nguyễn Thanh Mai

.

Mảnh Tình San Sẻ

(Kính gửi nữ sĩ Hồ Xuân Hương)

Tiểu Dẫn:

Nhân vật: Xuân Hương, Nguyễn Du

Địa điểm : Quán nước nơi HXH nuôi mẹ

Câu chuyện: Quan Cần chánh đi sứ, ghé lại quán nước, đối thoại cùng chủ quán, người lạ, giọng quen, là những thi tứ của ND và XH. Trong thân danh quan đại thần,  người tình cũ ấy người đã quên, hay đành lòng quên? Ai lớn hơn ai vậy? ND nén cái tình giữ cái cốt, XH lăng tằng ngạo cốt thật với chữ tình.

Mục đích: dựng lại giai thoại ND- XH

Tư liệu: Bài thơ XH gửi quan Cần chánh.

Tài liệu bổ sung: thơ HXH, truyện Kiều.

Làng Thọ Xương

1813.

Quán ven đường, hàng quán chỉ bát nước chè xanh và đĩa lạc rang . Đơn sơ mà không nhếch nhác. Chủ quán ngoài bốn mươi, nghe đã một đời chồng, mặt troái xoan hãy còn xuân chán. Trông mới nồng nàn như múi mít chín nục.

Hỏi chuyện chồng con, nàng cười:

-Đứt đuôi con nòng nọc.

Hỏi liệu còn dấn thân bước nữa, nàng quở:

-Thân này đâu đã chịu già tom!

Khách hàng đủ loại hào lí, khoá sinh, sồn sồn ngũ thập đến cả trai tơ mặt trắng, vừa khát nước vừa khát tình, dù chủ quán ra dáng lẳng mà chơi ác chẳng hứa gì chuyện bán phấn buôn hương.

Một ngày có bậc tu mi ra dáng vào quán nước ngồi tần ngần tư lự.Khách có lẽ cũng là người xứ Bắc, điệu đi dáng đứng khoan thai, buồn tự chủ chứ không ra dáng hách hách nghênh nghênh như số đông người miền Trung được mùa được thế thời này.

Khách đòi đĩa lạc bát chè. Một lát bàn đã bày biện xong, vượt quá yêu cầu khách, thêm một đĩa bột lọc. Hình như chỉ vừa mới nặn từ sáng, nóng hôi hổi, hình như chỉ dành đãi khách phương xa. Ơ hay?

Chủ quán cười đưa lời:

-Thân em thì trắng phận em tròn. Quan bác cứ lót lòng cho ấm đường xa  cho vơi ngày cũ vậy.

Băn khoăn, khách hỏi:

-Cô chủ biết tôi người phương xa? Biết cả tôi từng là người cũ của kinh thành ?

-Dễ nhìn ra thôi, dáng bác đăm chiêu tư lự như tuồng đang có việc hệ trọng từ kinh, mà cứ nấn ná chốn quê mùa này thế không vì ngày cũ thì còn là gì nữa!

Giật mình, thật khen cho con mắt tinh đời.

– Cô chủ nhạy cái nhìn đến thế, hẳn cũng nòi thi thư xứ Bắc?

-Thưa không dám, phụ nữ quê mùa vốn có làm thơ, chỉ có điều cộc kệch, còn đang chờ bậc tú tài nào nhiều chữ chữa giúp cho đôi vần liệu có ra màu thanh quí!

– Cô chủ cứ thử xem, tuồng đâu xưa tôi cũng phường khoá sinh, mắc cạn ở bến Tam Trường.

– Em đọc quan bác đừng cười nhà quê nhé. Này bác cứ nhìn đĩa bột lọc xem, là thơ em đấy:

Thân em thời trắng phận em tròn

Bảy nổi ba chìm với nước non

Rắn nát mặc dù tay kẻ nặn

Mà em vẫn giữ tấm lòng son.

– Hay! Chỉ tiếc còn sống sít. Nên chữa lạiRõ ràng trong ngọc trắng ngà, rành rành sẵn đúc một toà thiên nhiên”

–  Ôi , bác thanh quá, mà thực hơn cả điều em muốn nói. Hẳn bác cũng là người rành thơ phú?

– Văn chương nào ích gì cho tớ. Bận ấy đến rày tôi nghỉ việc làm thơ ,cũng đã mười lăm năm.

– Dám liều ý gửi cùng quan bác vậy, bác đến chốn Thọ Xương nghèo khó này hẳn không là vô ý?

– Ở đây tai vách mạch rừng

Thấy ai người cũ cũng đừng nhìn ai.

Thiếu phụ chừng chột dạ, nét rạng ngầm chừng sắp sửa nơi gương mặt chợt thu liễm, tối om om, tùm hum như cái hang cắc cớ.

Người khách chừng như chỉ muốn nghỉ hơi, chỉ tìm cái im lìm, chiêu thêm ngụm chè xanh, chép miệng, thở dài. Chủ quán lại chừng chưa thôi chuyện:

– Trộm phép quan bác, chữ nhiều thì được làm quan, ấm cái thân độc, chẳng giúp gì nhiều cho tứ khố vô thân. Nay bác ghé chơi, rộng rãi chỉ thêm vài nét sổ vậy, bác xem tướng em liệu sau này có bạc phước mà dính vào chốn nhân tình nhân ngãi cũ?

Khách nhìn kĩ lại chủ quán. Tuồng như lạ, tuồng như quen. Nho y lí số vốn nghề sách vở, đâu chỉ chuyện bừa bãi. Mà thực, cô chủ có cái nét sắc của gái nhà hoang, lại thêm nốt ruồi nơi đỉnh cô phong, vận số long đong, cầm phu hại tướng.

– Hình như hơn một lần đò, bến giàu sang, vận khí ngắn? Sẽ còn thêm lần vận hạn, rồi bến suông. Muốn đến được chốn thanh nhàn e chờ kiếp khác. Ngày cũ giờ mai một, chẳng còn mấy chỉ mặn mà!

Chủ quán trầm ngâm, ngẫm trời cao quả có sổ có sách. Hoá ra cái hạn hồi gặp ông Tổng ba năm qua cũng tại cái mũi sống cao mà lại điểm nốt ruồi trên chóp . Thật cái vận trời xanh quen thói mà hồng đánh ghen. Ông Tổng giàu, ông Tổng cũng lại có tâm, hiềm nỗi tham sắc dục, nhiều thê thiếp, đến phận mình cũng nếm cái vị làm lẽ một tháng đôi lần có cũng không. Mà của đáng tội, ông ấy cũng biết người biết của, cứ là hùng hục quỳ hai gối chống hai tay như cái kiểu hàng Tổng hay tận thu kì giáp hạt. Tự dưng dòng nước mắt không ai xui sử mà cứ lặng lẽ lăn dài. Không khiến không xui mà nàng cứ tự mình tự bạch:

Thân em như quả mít trên cây

Da nó xù xì múi nó dày

Quân tử có thương thì đóng cọc

Xin đừng mân mó nhựa ra tay.

Chợt khách nhăn mặt:

– Trà xanh mà khí vị chưa thanh, màu nước còn sánh quá, thái quá bất cập. Thơ cô chủ nồng nàn lắm. Mà một lời là một vận vào khó nghe. Nghĩ nên gọt lại đôi nét:

–         Tiếc thay một đoá trà mi

Con ong đã tỏ đường đi lối về.

– Hay! Mà đúng quan bác có tài khuyên điểm, hẳn cũng đã từng cầm bút chủ khảo trường Hương trường Hội đôi lần chứ chẳng chơi. Giá được quan bác đọc cho đôi vần nữa thì phúc cho gái quê này quá!

– Chẳng dám, cô chủ lại quá lời, tôi đã thuật rồi, mắc cạn ở bến Tam Trường, tài nông ý cạn, chỉ được cái quen sửa mũ mấn thôi.

Khách tần ngần, đứng lên, lại đi ra bờ hồ, dáng như chờ đợi. Lại quay vào. Chợt một lính lệ từ đâu xa đi lại, dáng khúm núm:

-Thưa quan Cần Chánh, kiệu dừng đã quá hai canh giờ rồi ạ, ta đi kẻo quá giờ thông quan, quan giữ cửa lại không cho vào thành thì rầy rà ra việc.

Té ra là quan Cần Chánh điện học sĩ ngang làng, mới đây cả thành xôn xao về việc triều đình đang cử một đoàn sứ bộ đi sứ nhà Thanh.

Cần chánh điện học sĩ quay lại phía cô chủ quán:

– Làm phiền cô chủ, tôi vốn có ý đợi một người, tiếc là không gặp. Có đôi vần thơ gửi người cũ, mai này có thấy cô gái nào hái sen bên hồ, nhờ cô chuyển giúp cho, may ra gặp đúng người cũ thì âu cũng là phúc nhà.

Rồi cẩn thận lấy trong ống tay áo một phong lụa mỏng, thoáng nhìn qua cũng đã ngây ngất với nét chữ hào hoa nho nhã, trao tận tay cô chủ quán.

Khách đi rồi. Chủ quán còn ngẩn ngơ. Trong vuông lụa óng là một bài thơ , ý tình thấm thía:

Yêu sen toàn yêu hoa

Yêu cuống có ai mà

Trong cuống có tơ thật

Vương vấn dứt không ra.

Cô chủ lẩm bẩm: Đúng là nhà nho, tham si thầm kín. Nén cái tình giữ cái cốt, cũng là đại hoạ diệt thân, sao chẳng dại một lần đủ chung đủ thuỷ. Mà ờ, ngạ sử nữ bất tục, thất tiết bất thông. Đành mị cái thân mình vậy.

Như chưa dứt tình nghiên bút, chủ cũng viết vội đôi vần, đối không thành đối, hoạ không thành hoạ:

Dặm khách muôn nghìn nỗi nhớ nhung

Mượn ai tới đấy gửi cho cùng

Chữ tình chốc đã ba năm vẹn

Giấc mộng rồi ra nửa khắc không

Xe ngựa trộm mừng duyên tấp nập

Phấn son riêng tủi phận long đong.

Biết còn mảy chút sương siu mấy

Lầu nguyệt năm canh chiếc bóng chong.

***

Hai trăm năm sau có người danh sĩ tình cờ lục trong thư tịch cũ, sở đắc hai bài thơ kể trên, báo chí lại một phen hoang tàn giấy mực chỉ vì bài thơ cô chủ hữu ý rơi ra dòng địa chỉ: Cảm cựu kiêm trình cần chánh học sĩ Nguyễn Hầu.

Thực ra cái nghi án văn chương chỉ là kết quả của mấy phen hoang tưởng. Sự thực chỉ là cuộc đùa thơ của cô hàng nước xứ Bắc vốn sính thơ với một nho sinh thất tình thất ý tình cờ . Thế thôi!

.

Nguyễn Tấn Ái

Nguyễn Du cung kiếm

Năm 1965, đại thi hào Nguyễn Du được công nhận là danh nhân văn hoá thế giới.

Và sự nghiệp thi nhân vĩ đại lại được con cháu cung kính chiêm nghiệm, dù nông cạn đúng sai nhiều nẻo, nhưng đáng quí là ở cái lòng cung cung kính kính với tiền nhân .Và cụ Nguyễn suối vàng biết có ngậm cười?

Cuộc đời vĩ nhân ấy quả thật vĩ nhân ngay ở cái nẻo lạ thường quá đỗi: Dòng dõi đại quí tộc mà cuộc mưu sinh lại lắm nhọc nhằn, cựu thần nhà Lê mà ngậm ngùi làm quan triều Nguyễn như một điều thất tiết, cùng nguồn gốc quê hương, cùng cái chí giúp đời mà nhìn người anh em Nguyễn Huệ như kẻ cựu thù…Mà có lẽ một cái lạ nữa là nghiệp thi thư mà lại thạo nghề cung kiếm.

Nhàn đàm vài điều về nghiệp kiếm cung mà Nguyễn Tiên Điền trót một thời mang vác.

Mười tám tuổi đỗ tam trường, hãy còn rất trẻ, không hiểu vì sao Tố Như lại bỏ ngang đường thi phú, lặn lội về Thái Nguyên tập ấm một chức võ biền nhỏ nhỏ. Đó có lẽ cũng là một câu hỏi lớn. Tôi ngẫm mãi mà cũng chỉ tự giải thích với mình: Con người thi thư ấy vốn đã mất niềm tin vào sách vở Thánh hiền rồi chăng?

Mà rồi không đường đường khoa bảng, tài năng Nguyễn Du vẫn được tín nhiệm ưu ái như một quan văn trên đường hoạn lộ, nên đôi khi người đời quên mất một Nguyễn Du từng khát khao làm tráng sĩ.

Tráng sĩ bạch đầu bi hướng thiên

(Tạp thi-Thanh Hiên thi tập)

Bạc đầu tráng sĩ ngửa kêu trời

( Đào Duy Anh dịch)

Câu thơ thống thiết ấy được cảm khái mà thành trong những ngày tháng ông ẩn nhẫn làm người đi săn dưới chân núi Hồng lĩnh. Cái kiếm khí ngùn ngụt ngậm ngùi thật có sức ám ảnh.

Lặn lội tìm đường theo vua Lê mà bị kẹt, bỏ trốn vào Nam theo chúa Nguyễn cũng không thành, không biết trong những lần bôn ba ấy cái chí cụ Nguyễn Du nghiêng về nghiệp văn hay nghiệp võ. Chỉ biết rằng đến năm ba mươi tuổi đầu, danh tài Nguyễn Du vẫn tự thán trong phong vận một tráng sĩ mà bỉ cái văn chương nhiều lắm:

Tằng lăng trường kiếm ỷ thanh thiên

Triển chuyển nê đồ tam thập niên

Văn tự hà tằng vi ngã dụng

Cơ hàn bất giác thụ nhân liên.

( Ngạo với non sông chống giáo dài

Bùn lầy lăn lóc tuổi ba mươi

Văn chương nào ích gì cho tớ

Cơm áo ngờ đâu phải luỵ người)

(Nguyễn Huệ Chi dịch)

Tự biết từ đời nhà Trần lắm văn thần cũng là võ tướng: Trần Quốc Tuấn, Trần Quang Khải, Phạm Ngũ Lão… Song qua từng thế kỉ, cái văn võ toàn tài càng lúc càng hiếm dần. Văn võ tự phân là hai hàng tả hữu vốn uý kị nhau. Càng dời dần về sau thì cái người thi thư đeo theo nghề cung kiếm lại cứ như là sự ngạo.

Nên thật hứng chí mỗi lần nói chuyện Tản Đà kiếm khách từng là vệ sĩ cho Tán Thuật, Quang Dũng ngày kháng chiến sau những trận thơ rượu tơi bời lại hứng chí thử mấy đường gươm gia truyền loang loáng bàng bạc dưới trăng.

Và lại lần dò trao đổi đôi điều về một Nguyễn Du nổi tiếng thi hào, liệu có phải cũng có lúc nuôi chí anh hào không nhỉ?

Biết đâu, không phải cơ trời run rủi, ta đã lại có một trang kiếm khách. Tiếc thay!?

.

Quế Sơn 2010

Nguyễn Tấn Ái

Blog Chuyên Anh

Nurturing Language Talents

%d người thích bài này: