• Bài viết mới

  • Thư viện

  • Chuyên mục

  • Tag

  • Join 1 092 other subscribers
  • Bài viết mới

  • Blog – theo dõi

  • Enter your email address to follow this blog and receive notifications of new posts by email.

    Join 1 092 other subscribers

Con Vòi Voi ( Hồng Vân)

Đọc bài này bạn sẽ biết thêm một sinh vật rất đặc biệt, làm thức ăn rất ngon mà không phải ai cũng có cơ hội được thử.

Đậy  là con Vòi Voi; “trông rất hùng dũng”.

Biết Lắng Nghe và Thể Hiện Mình (Huỳnh Huệ)

Dù bạn làm nghề gì, mỗi ngày trong đời bạn thường gặp gỡ, tiếp xúc, với một vài hay nhiều người khác. Dù chỉ là những trò chuyện ngắn, một vài câu chào, han hỏi, đối đáp với bạn hay trả lời thầy cô, sếp của  mình, bạn đã thể hiện một chút hay khá nhiều con người của bạn qua tiếng nói và giọng điệu của bạn. Tiếp tục đọc

Nghịch Cảnh ( Đàm Lan)

Nghịch cảnh là những chuyện tồi tệ mà cho dù không hề muốn người ta vẫn cứ phải đối mặt với nó. Mà những chuyện như thế thì nhiều lắm và luôn xảy đến cho ta bất cứ lúc nào. Ví dụ : ta đang khoẻ mạnh, bỗng gặp một tai nạn giao thông, ta bị ảnh hưởng nghiêm trọng đến một bộ phận chức năng của cơ thể, ta bỗng nhiên trở thành một người bị khiếm khuyết, cuộc sống ta bỗng nhiên có một sắc màu khác có thể tương phản hoàn toàn với cuộc sống lúc trước, ta mất đi một số bạn bè, một số sinh hoạt yêu thích…hoặc một sự phản bội, lừa đảo từ người yêu, bạn bè, đồng nghiệp, cảm giác hẫng hụt, đau đớn, cay đắng, chua xót…một thứ cảm trạng thật tệ hại, mọi điều trở nên tối tăm, mờ mịt, tinh thần suy sụp, tình cảm đổ vỡ, mất tự tin, mất cả niềm tin…hoặc một sự mất mát do thua lỗ, thiên tai, trộm cắp, hệ trọng hơn là mất người thân, sự hoảng loạn, mất phương hướng, đau thương, tiếc nuối…một tình trạng hết sức căng thẳng trầm trọng, không dễ gì gượng dậy trong một khoảng thời gian ngắn…hoặc những người chung quanh ta như hàng xóm, người thân, cộng sự nhưng là người có lối sống, cách hành xử bất thuận, trái chiều, thậm chí là đối nghịch hoàn toàn, nhưng ta không thể đơn phương xử lý vì sự bất khả kháng từ nhiều góc độ, vì vậy mà luôn có những cảm giác khó chịu, bức xúc, bực bội, dồn nén…hoặc ta đang phải sống trong một hoàn cảnh bất tiện, thiếu thốn tiện nghi, có những chật vật khó khăn mà không dễ gì khắc phục được, tâm trạng tù túng, bức ách, cô thúc trong nhiều hoạt động ước muốn… Tiếp tục đọc

Vài Suy Nghĩ về Học Thi IELTS (Ngọc Thạch)

Xin giới thiệu đến các bạn và các em một số chia sẻ về kinh nghiệm học thi IELTS của Trần Ngọc Thạch. Ngọc Thạch vừa tốt nghiệp Trung Học Phổ Thông và không lâu sau đó  tham dự kỳ thi IELTS ngày 25/ 6 / 2011 vừa rồi. Lần đầu dự thi sau gần 2 tháng ôn thi, Thạch đạt điểm 7, trong đó môn Viết đạt 7, 5 điểm là một kết quả đáng phấn khởi. Tiếp tục đọc

Tản Mạn Cuối Năm Học ( Trần Hồng Hải)

Mỗi sự kiện lớn đi qua trong cuộc đời để lại cho chúng ta những dấu ấn khác nhau: có thể là niềm vui, thoáng buồn, cảm xúc thoáng qua hay là bài học cho cả con đường tương lai … Không ai có thể chắc chắn  những gì cuộc sống sẽ mang lại cho mình: những điều bất ngờ  thú vị hay sự tẻ nhạt. Có thể nói cả năm học lớp 11 vừa qua là một chuỗi những sự kiện đầy bất ngờ ập đến với tôi. Câu chuyện mà tôi suy nghĩ nhiều nhất và  muốn chia sẻ là  việc học của bản thân… Tiếp tục đọc

Đom đóm vào nhà ( Nguyễn Đình Xuân)

          Khi đến tháng Tư âm lịch là đã sang mùa hạ. Thế mà trời vẫn trở gió Đông Bắc, đêm lắc rắc mấy hạt mưa. Để lấy khí trời nên tôi không đóng cửa sổ. Bất ngờ có chú đom đóm bay vào phòng ngủ, sáng lập lòe. Đèn trong phòng đã tắt nên ánh sáng đom đóm rõ hơn. Đom đóm bay vòng quanh nhà, sà lên trần màn rồi lại tất tả bay. Con trai nằm cùng tôi ngạc nhiên hỏi con vật gì mà sáng lập lòe thế. Ờ nhỉ, con đã bao giờ nhìn thấy đom đóm đâu. Những năm trước sống giữa khu phố cổ, rồi chỉ về quê khi đã nghỉ hè, hết năm học, làm sao con gặp đom đóm, để mà nhận biết? Tiếp tục đọc

Nghễnh ngãng thơ (Nguyễn Tấn Ai)

Xưa khi còn ở cái mùa “dĩ thi thủ sĩ”, khi văn chương trường ốc thì thi phú chiếm đến 1/3 hẳn các nhà thơ phải là những nhà thông thái, không như bây giờ hễ chú học trò nào ngờ ngờ nghệch nghệch lại được thiên hạ ác khẩu âu yếm mến tặng cho mấy chữ “ nhà thơ”!

Nhân lan man nghĩ ngợi, lại nhớ ra hình như là ở ngay cái thời huy hoàng nhất của thi phú mà cũng có những chuyện thơ còn hơn cả cậu ngờ cô nghệch.    Tiếp tục đọc

Sen Tháng Tư (Phương Thảo)

Tôi yêu từng búp sen “tròn mà nhọn” (BMH 13/05/11), ấp ủ những tinh khôi. Như tôi yêu ánh mắt ngây thơ của con trẻ ngước lên nhìn mình, tràn đầy tin tưởng, dấu yêu và gắn bó. Nói ngước lên nhìn là để hình dung đúng “cao độ” đôi mắt của con chỉ khoảng ngang bụng người lớn.


Tôi trân trọng những đóa sen đã nở tung xòe, trải ra hết những hương và sắc của mình. Như tôi trân trọng người cha trong câu chuyện “Cha và con” (BMH 14/05/11), hiện sinh của người được hỏi 23 lần “Đó là con gì?” khi con ông còn nhỏ và người hỏi đúng 3 lần “Đó là con gì?” khi con ông đã lớn.

Những cái lá sen to tròn cũng vậy, từ khi là một cái ngó sen chui thẳng lên mặt nước, hình thành lá sen với 2 mép cuộn tròn vào trong. Rồi một ngày, lá sen xòe tròn đầy đủ, đón bất cứ giọt nước nào muốn thỏa thích lăn tròn trong lòng lá bên trên; và bên dưới,  che mát cho tôm cá tung tăng.

Tôi không có ý định từ bỏ những lá, những hoa, những gương sen khiếm khuyết. Ngày trước, tôi thường không chấp nhận những bó hoa có kèm 1-2 cành hoa không đẹp, kết quả là có khi tôi không mua được hoa cúng Phật. Giờ thì tôi không còn băn khoăn do dự gì khi chọn một bó hoa không hoàn hảo: có 1-2 bông không đẹp thì cũng còn 8-9 bông đẹp, còn hơn là không mua được bông. Và tôi muốn những bông hoa không đủ phần hương sắc kia cũng có dịp dâng mình cúng Phật.

Tôi sẽ thế nào nếu ngày mai là cánh hoa đã lìa cành? Thật thản nhiên nếu đã biết trước và cũng không hề ngạc nhiên nếu không biết trước, vì tất cả mọi việc dù bất ngờ, bất hạnh đến đâu cũng có thể xảy ra mà.

.

.

Tôi thích ngồi lột vỏ lụa xanh và nhâm nhi từng hạt sen tươi, tận hưởng tinh hoa của đất trời.

Trên bàn Phật hôm nay, tôi dâng lễ là một bát hạt sen tươi.

.

Phương Thảo 

Rằm tháng Tư 2011

Được câu thơ in trên lịch block đại năm 2011(Nguyễn Đình Xuân)

Hôm nay từ Bệnh viện 7 ở Hải Dương về Hà Nội, phấn khởi vì sức khỏe của ba tiến triển tốt, lại nhận được thư của bác Nguyễn Hữu Phách báo tin vui. Bác Phách còn gửi kèm cả tờ lịch ngày 11-7-2011 đăng 4 câu thơ của mình. Không biết lịch của NXB nào, nhưng như thế là rất quý rồi, có được câu thơ in trên lịch, dù trên một tờ giấy mỏng manh, qua ngày rồi người ta lại bóc đi. Nhưng trong lòng vẫn thấy vui vui…
Đó là một khổ thơ trong bài “Chiều Tây Bắc” của Nguyễn Đình XuânTiếp tục đọc

Hạt Bọt Trà (Võ Phiến)


Dịch thể ngạnh ngọc bào”: tôi lấy làm suy nghĩ về chữ “bào” rất nhiều.

Ca tụng cái bọt của chất nước ngọc? Trà là nước ngọc? Tốt lắm, nhưng còn chút bọt kia, nó giữ vai trò gì ở đây? Ai cũng biết trong chén trà Tàu bé bằng hạt mít, bậc đài các chỉ thưởng thức cái hương và cái vị của một hớp nước mà thôi. Làm gì có bọt bèo trong đó? Bọt bèo rườm rà cũng không có cả trong chén trà bột của người Nhật. Vả lại dù có dăm ba hạt bọt, thì đó đâu phải là một yếu tố làm nên giá trị của trà? Nói đến làm gì?  Tiếp tục đọc

Tản Mạn Với Ban Mai Hồng (Tấn Ái)

 

           Có lẽ tôi đến với Ban Mai Hồng vào tốp sớm nhất, từ khi Ban Mai Hồng  mới tinh đến nay đã một năm. Một năm nhìn lại mạo muội có một đôi dòng quanh chuyện đọc và viết bài.

            Dĩ nhiên Ban Mai là một sân chơi. Cách nhìn vừa khiêm tốn, mà cũng vừa đứng đắn. Nhưng cũng có lẽ các tác giả sẽ ngẫm lại rằng không ai viết chơi, đọc chơi cả. Bản thân tôi nhận thấy hành trình viết bài cho một trang nghiêm túc là một công việc nghiêm túc, đôi khi khá vất vả. Tiếp tục đọc

Hát Hò Hát Hỏng (Tấn Ái)

https://i0.wp.com/nddat.vnweblogs.com/gallery/2427/cicada_12.jpg

Mùa hè có tiếng ve. Ra rả, ra rả…lắm lúc nhức cả đầu. Ấy vậy mà thử nghĩ thiếu cái tiếng quậy phá kia thì hè có còn là hè không nhỉ?

Có lẽ nó vẫn là hè, song là hè của châu Âu, châu Mỹ mà chẳng còn là hè của Việt Nam.

Mà lạ nhỉ, sao lại không có ve thì không là mùa hè Việt Nam? Hạ gọi ve về hay ve gọi hè sang? Nguyên nhân và kết quả? Hiện tượng hay bản chất? Tiếp tục đọc

Nỗi Nhớ Tôi

Tặng “người dưng khác họ”

 Có những nỗi nhớ đi qua thế kỷ đời người

bồng bềnh trong cơn mơ  dặc dài ký ức

Phơ bạc mây – sợi mù xa nhưng nhức

Con Sông chở chuyên bao số phận lở bồi   Tiếp tục đọc

Những Phút Tuyệt Vời Nhất Trong Đời

Những thời khắc hạnh phúc nhất trong đời bạn là gì? Điều này còn tùy thuộc rất nhiều vào quan niệm hạnh phúc và niềm vui của mỗi người.  Chúng ta có cách cảm nhận riêng về những giây phút đẹp nhất trong đời mình theo từng hoàn cảnh khác nhau. Có hạnh phúc dựa trên sự thỏa mãn những nhu cầu vật chất rất cao. Có hạnh phúc đơn sơ giản dị trong sự thuận hòa của gia đình, tuy vật chất không dư dật:

“Râu tôm nấu với ruột bầu

Chồng chan vợ húp gật đầu khen ngon”

Bạn là một anh chàng độc thân, thích thể thao và  vui chơi với bạn bè?  Thế thì những thời khắc hạnh phúc của bạn phải ở bên bạn bè,  cùng chia sẻ một sở thích chung. Đó là  một trận bóng bàn thật hào hứng mà cặp đôi của bạn có những cú đập, hay giật bóng xoáy thực đẹp và hiệu quả.

Bạn là một bà mẹ hết lòng chăm lo cho hạnh phúc gia đình, cho việc học hành con cái, ngày đi làm vừa  đưa đón con đi học, đêm về phải thức dò bài con hay chờ con học xong mới ngủ. Những giây phút tuyệt vời nhất của bạn phải chăng là khi nhận tin con bạn đạt giải cao trong Kỳ Thi Học Sinh Giỏi Cấp Tỉnh/ Thành hay Quốc Gia. Tiếp tục đọc

Tình Yêu qua thơ nhạc

Khái niệm tình yêu vô cùng rộng, lớn bao trùm cả nhân gian, thiên hạ, gia đình, tổ quốc yêu người, thiên nhiên, sự vật trên đời….

Bách khoa toàn thư định nghĩa tình yêu như thế này: “Tình yêu là một khái niệm đa nghĩa trong cách diễn đạt và cách hiểu của mọi người, nhưng theo nghĩa chung nhất, tình yêu là trạng thái tình cảm của chủ thể này đối với một chủ thể khác ở mức cao hơn sự thích thú và phải nảy sinh ý muốn được gắn kết với chủ thể đó ở một khía cạnh hay mức độ nhất định.

Chủ thể của tình yêu, ngoại trừ một số trường hợp được nhân cách hóa, còn lại đều là con người. Còn chủ thể tác động của tình yêu thì rất đa dạng, có thể là bất kỳ thứ gì, từ đơn giản đến phức tạp, từ nhỏ bé đến vĩ đại, từ hữu hình đến vô hình.

Có lẽ nhiều người trong chúng ta sẽ không thoả mãn với định nghĩa về tình yêu đôi lứa giữa nam và nữ theo Wikipedia: “Tình yêu giữa hai giới tính nam và nữ (hoặc giữa những người cùng giới) được định nghĩa là “Hệ quả của sự kết hợp giữa bản năng và trí tuệ của con người”.

Định nghĩa trên hình thành từ khái niệm “bản năng con người” và “trí tuệ con người”.

Theo triết học: tình yêu là một loại tình cảm giữa người và người, hướng con người đến Chân, Thiện, Mỹ.

Chúng ta không phải triết gia nên cũng không cần băn khoăn về định nghĩa về tình yêu. Vì ngay đến các thi sĩ, nhạc sĩ nhiều rung cảm và đa tình còn không lý giải được tình yêu một cách rành mạch mà

Hôm nay Lễ Tình Nhân ta thử xem các thi sĩ và nhạc sĩ nói gì về Tình Yêu đôi lứa của Valentine thôi nhé.

Tình yêu, chẳng biết khi nào và ở tuổi nào bắt đầu, có lẽ không chỉ tuổi 20 mới bắt đầu yêu như Huy Cận:

Vậy đó bỗng nhiên mà họ lớn,

Tuổi hai mươi đến có ai ngờ.

Một hôm, trận gió tình yêu lại,

Đứng ngẩn trông vời áo tiểu thư.”

Chỉ biết khi anh chợt nhận ra một cảm giác rất lạ xao xuyến, bồi hồi, ấy là lúc biết yêu:

Bỗng dưng tôi thấy bồi hồi

Tôi buồn tự hỏi hay tôi yêu nàng”

(Cô Hàng Xóm, Nguyễn Bính)

“Lòng anh như hoa hướng dương

Trăm nghìn đổ lại một phương mặt trời

“Nắng mưa là bệnh của Trời

Tương tư là bệnh của tôi yêu nàng.”

(Nguyễn Bính)

Hàn Mặc Tử bảo ta rằng:

“Ai hãy làm thinh chớ nói nhiều

Để nghe dưới đáy nước hồ reo

Ðể nghe tơ liễu rung trong gió

Và để nghe trời giải nghĩa yêu.

Tình yêu của Bàng Bá Lân và Em của Đức Huy nhất định phải rất đẹp như một bài thơ, là nguồn mơ bướm hoa, mơ yêu trong một chiều xuân hạnh phúc:

Yêu nhau từ một buổi chiều

Một chiều xuân đẹp có nhiều bướm hoa

Em là cả một bài thơ

Em là cả một nguồn mơ ái tình.”

“Và tôi cũng yêu em, và tôi cũng yêu em,

Yêu em rộn ràng, yêu em nồng nàn

Và tôi cũng yêu em, và tôi cũng yêu em,

Yêu em rộn ràng, yêu em nồng nàn, yêu em, chứa chan.”

(Đức Huy, Và Tôi Cũng Yêu Em)

Tình yêu dường như gắn liền với mùa Xuân vui, phải chăng vì mùa xuân gắn liền với tuổi trẻ

“Bên em bên em anh say trong hạnh phúc

Đôi môi em anh ngỡ cánh đào

Bên anh bên anh em nghe trong lòng hát

Những giai điệu tình yêu.

Ta đi bên nhau đón xuân đang về tới

Hồn hòa vào cùng với đất trời

Xin nâng ly lên chúc nhau thêm hạnh phúc

Cuộc đời mãi thắm tươi”

(Khúc Giao Mùa, nhạc sĩ Huy Tuấn)

Ngày ấy khi Xuân ra đời

Một trời bình minh có lũ chim vui

Có lứa đôi, yêu nhau rồi

Hẹn rằng còn mãi không nguôi

(Johann Strauss Jr, Khúc Hát Thanh Xuân, lời Việt Phạm Duy).

Tình yêu cũng lắm khi mù quáng và luôn mãnh liệt cả trong niềm vui và nỗi buồn với Sức công phá của tình sầu này quả kinh hoàng đến độ thiêu cháy trên thân xác người ( Tình Sầu, Trịnh Công Sơn, và cũng giết chết tâm hồn như thở than của nhà thơ lãng mạn Xuân Diệu khi lạc lối yêu và bị phụ tình :

Tình yêu như trái phá con tim mù loà.

Một mai thức dậy, chợt hồn như ngất ngây, chợt buồn trong mắt nai,

rồi tình vui trong mắt, rồi tình mềm trong tay.

“Tình yêu như vết cháy trên da thịt người.

Tình xa như trời, tình gần như khói mây,

tình trầm như bóng cây, tình reo vui như nắng, tình buồn làm cơn say”

(Tình Sầu, Trịnh Công Sơn)

Yêu là chết trong lòng vì bị phụ rẫy hay tương tư bởi yêu đơn phương. Yêu là cho nhiều hơn nhận:

Yêu là chết ở trong lòng một ít

Vì mấy khi yêu mà chắc được yêu

Cho rất nhiều song nhận chẳng bao nhiêu

Người ta phụ, hoặc thờ ơ, chẳng biết

Họ lạc lối giữa u sầu mù mịt

Những người si theo dõi dấu chân yêu

Và cảnh đời là sa mạc vô liêu

Và tình ái là sợi dây vấn vít

Yêu, là chết ở trong lòng một ít”

( Yêu, Xuân Diệu)

Trời ạ, biết yêu là chết cả cõi lòng, thế mà cứ yêu, hăm hở yêu là bởi vì sao?

Thử xem có ai kháng cự được ma lực của tình yêu, vì ta ai chẳng lạ gì  nỗi đắm say  của Hồ Tôn Hiến:

Nghe càng đắm ngắm càng say

Lạ cho mặt sắt cũng ngây vì tình !

( Kiều, Nguyễn Du)

Tình mười năm vẫn mới tinh khôi như thuở ban đầu hò hẹn:

Mười năm chừng mới hôm nay

Hương trinh ngây ngất còn say đắm hồn

Còn nghe thơm nụ môi hôn

Còn nghe rung động lần hôn buổi đầu.

Hà Liên Tử

Mắt em lấp lánh sao rơi

Môi em như đóa mộng đời ngất ngây

Hằn trên môi vị cay cay

Hồn anh ngơ ngẩn đắm say một đời

(Nụ Hôn Trinh Nguyên, Hồng Vũ Lan Nhi)

Người yêu là cả vũ trụ, là mặt trời, nắng ấm. Vắng người yêu, nắng không vàng, cây lá không xanh, vắng bóng một người cả thế giới  sẽ trở thành hoang vắng.

Xa người yêu, Thuý Kiều của thi hào Nguyễn Du cũng thấy cô lẻ,  ngay cả vầng trăng tròn trên cao chỉ còn một nửa:

iều cũng thấy mọi thứ đều chỉ còn một nửa, ngay cả vầng trăng trên cao:                                                                             

“Vầng trăng ai sẻ làm đôi
Nửa in gối chiếc nửa soi dặm trường.”

Khi người yêu ra đi, Hàn Mặc Tử  thấy lòng hiu hắt, thẫn thờ

Người đi một nửa hồn tôi mất
Một nửa hồn kia bỗng dại khờ.”

(Những giọt lệ, Hàn Mặc Tử)

Hiu hắt lòng ta như thiếu nắng                                                                                                                                                         Như những ngày những tháng không em

Chế Lan Viên

“Ý thu lạnh len vào trong gió

Lòng se lòng nỗi nhớ dâng lên

Chân trời cánh nhạn bóng chim

Lòng anh chỉ một bóng em hẹn chờ”

Đinh Huyền

Nếu Vũ Quần Phương thành tro vì bị sức nóng của Nàng áo đỏ thiêu cháy thì núi đá của Đinh Hùng thẫn thờ nhung nhớ:

“Áo đỏ em đi giữa phố đông

Cây xanh như cũng ánh theo hồng

Em đi lửa cháy trong bao mắt

Anh đứng thành tro em biết không”

(Vũ Quần Phương)

Em đi dẫy núi nhìn ngây ngất

Đá cũng tình si nhớ gót son”

Em đi rồi then khóa cả chiêm bao

Gầy vóc mộng gói tròn manh áo nhớ

(Đinh Hùng)

Không nỗi khổ nào hơn vắng nàng, hệt như kẻ thất tình: rã rời, héo úa như Nguyễn Nhật Ánh với Phía Không Nhau

Anh đi về phía không em

Một ngày ngạo nghễ, nghìn đêm rã rời

Môi khô cố thắm miệng cười

Héo vàng gượng gạo nói lời tươi xanh”

( Nguyễn Nhật Ánh)

Người yêu xa cách, tuy nhung nhớ nhưng vẫn còn niềm hạnh phúc của “nhớ” và “được nhớ”.

“Hôm nay có một nửa trăng thôi

Một nửa trăng ai cắn vỡ rồi

Ta nhớ mình xa thương đứt ruột

Gió làm nên tội buổi chia phôi”

(Một Nửa Trăng, Hàn Mạc Tử)

Vũ Hoàng Chương cất lên một tiếng than:

Em ơi lửa tắt  bình khô rượu                                                                                                                                                              Đời vắng em rồi say với ai

Nhà thơ  Cung Trầm Tưởng đã thốt lên tiếng lòng biệt ly của bao người qua mấy vần thơ trong bài Chưa Bao Giờ Buồn Thế, được nhạc sĩ Phạm Duy phổ nhạc

Lên xe tiễn em đi
Chưa bao giờ buồn thế
Trời mùa đông Paris
Suốt đời làm chia ly

Tiễn em về xứ mẹ
Anh nói bằng tiếng hôn
Không còn gì lâu hơn
Một trăm ngày xa cách

(  Tiễn Em, Phạm Duy)

Nhạc sĩ Doãn Mẫn đã làm bao trái tim yêu thổn thức với tình khúc bất tử Biệt Ly:

“Biệt ly nhớ nhung từ đây.

Chiếc lá rơi theo heo may.

Người về có hay.

Biệt ly sống trên dòng sông.

ôi còi tàu như xé đôi lòng

và mây trôi nước trôi ngày tháng trôi cùng lướt trôi.

Mấy phút bên nhau rồi thôi.

đến nay bóng em mờ khuất.

Người về u buồn khắp trời.

Người ra đi với ngàn nhớ thương.”

(Biệt Ly, nhạc sĩ Doãn Mẫn)

Đau khổ biết bao khi cuộc tình đã đi vào dĩ vãng qua những giai điệu đẹp mà sầu của Phạm Duy trong Nghìn Trùng Xa Cách.

Nghìn trùng xa cách người đã đi rồi

Còn gì đâu nữa mà khóc với cười

Mời người lên xe về miền quá khứ

Mời người đem theo toàn vẹn thương yêu

Đứng tiễn người vào dĩ vãng nhạt mầu……..

Sẽ có chẳng nhiều đớn đau

Nối gót người vào dĩ vãng nhiệm mầu

Có lũ kỷ niệm trước sau

Vài cánh xương hoa nằm ép trong thơ

Rồi sẽ tan đi mịt mù

Vạt tóc nâu khô còn chút thơm tho

Thả gió bay đi mịt mù”


Cuộc tình như những dòng sông nhỏ, khi ra khơi là cuộc đi biền biệt, mưa đã cuốn trôi cả lời thề xưa nhẹ quá, trong cuộc tình u mê:


“Giọt rượu nào mãi chua cay

Trong tình vẫn u mê”

“Ôi tiếng buồn rơi đều

Nhìn lại mình đời đã xanh rêu.”

Từng người tình bỏ ta đi

Như những dòng sông nhỏ

Ôi những dòng sông nhỏ

Lời hẹn thề là những cơn mưa”

(Tình Xa, Trịnh Công Sơn)

Và hờn trách ai bạc tình như thi sĩ Nguyễn Bính:

“Ai đem rắc bướm lên hoa

Rắc bèo xuống giếng rắc ta vào nàng

Ai đem nhuộm lá cho vàng

Nhuộm đời cho bạc cho nàng phụ ta”

(Rắc Bướm Lên Hoa, Nguyễn Bính)

Tình yêu có đủ cung bậc, sau những ngày vui qua mau, là nỗi buồn xa vắng

“Nghe đi rời rạc trong hồn

Những chân xa vắng dặm mòn lẻ loi

Rơi rơi dìu dịu rơi rơi

Trăm muôn giọt nhẹ nối lời vu vơ”

“Tay anh em hãy tựa đầu

Cho anh nghe nặng trái sầu rụng rơi”

( Huy Cận)

Vì thế nên có lời van vỉ xin sóng cứ vỗ bờ đứng ngược ra khơi, mà hãy gắn bó như thuyền và biển.

Em là sóng nhưng xin đừng như sóng

Đã xô vào xin chớ ngược ra khơi”

(Đỗ Trung Quân)

“Những ngày không gặp nhau

Biển bạc đầu thương nhớ

Những ngày không gặp nhau

Lòng thuyền đau – rạn vỡ

Nếu từ giã thuyền rồi

Biển chỉ còn sóng gió”

Nếu phải cách xa anh

Em chỉ còn bão tố.”

(Thuyền và Biển, Xuân Quỳnh)

Tình yêu là thuỷ chung một lòng nhưng phải là từ hai phía nhìn về một hướng :

“Tôi vẫn luân hồi muôn kiếp nhớ

Cho dẫu ngày mai ai lãng quên

(Hoài Phương)

“Này em ơi dòng sông bao giờ cạn

Mối tình ta có phai lạt không em

Ngẩng đầu lên ánh trăng vàng run rẩy

Đổ tràn lên mái tóc đẫm sương đêm

Qua kẽ lá kìa ngôi sao nhìn trộm

Hắn nhìn em say đắm gục vai anh”

( Khương Lam)

Và hờn ghen như Nguyễn Bính bởi quá yêu:

Cô nhân tình bé của tôi ơi!

Tôi muốn môi cô chỉ mỉm cười

Những lúc có tôi, và mắt chỉ

Nhìn tôi những lúc tôi xa xôi.”

“Nghĩa là ghen quá đấy mà thôi,

Thế nghĩa là yêu quá mất rồi,

Và nghĩa là cô và tất cả,

Cô, là tất cả của riêng tôi.”

Mùa Xuân, mùa tình yêu nên cũng là ước mơ của đôi lứa:

“Ta yêu nhau thiết tha

Mạ ngoài đồng em cấy lúa ba trăng

Em ơi anh vẫn chờ

Để em về thưa với mẹ

Khi ra giêng tính liền

Hẹn đợi năm sau cánh đồng mình gặt hái xong thảnh thơi

Ra giêng anh cưới em”

( Ra Giêng Anh Cưới Em)

Mùa Valentine nên chúng ta hãy cầu chúc cho những người yêu nhau hãy hạnh phúc cùng chia sẻ vui buồn suốt đời bên nhau như đôi uyên ương trong ngày tân hôn cho đến tận khi tóc không còn xanh nữa:

“Em bên mình anh, lặng im dưới ban thờ

Và quanh chúng ta là vui sướng chan hoà .

Tình duyên nhỏ bé thành đôi ước mơ già

Bao nhiêu tóc tơ, giờ đây đã kết se .

Ta bên mình nhau, rồi đi suốt con đường

Đưa ta suốt đời về nơi xứ Thiên Đường

Về nơi tổ ấm nhờ ơn Đức cao vời, Ơn Mẹ Mari-a .

Người yêu ơi ! Ơi người ! Người yêu dấu ơi !

Cùng bên nhau suốt đời, cùng chia sớt nỗi vui

Hay nỗi sầu, cùng cho nhau biết bao là yêu,

Ví dầu đời qua mau, với mái đầu, rồi đây sẽ trắng phau .

Ôi vai kề vai, và tay nắm tay rồi,

Đời thôi vắng tanh, lẻ loi kết đôi rồi !

Từ nay nồng ấm, đời thôi hết u hoài .

Ave Mari-a

Ôi tình chăn gối bao la

Sẽ mang về mãi tận cõi già .”

Ave Maria, Ngày Tân Hôn – lời Việt Phạm Duy.

Vân Đài Loại Ngữ và Địa Lý

Ai cũng biết ông Bảng Lê Quí Đôn là một học giả thông kim bác cổ.
Mục đích lớn của những nhà khoa bảng xưa là đem cái sở học của mình mà bình thiên hạ.
Trong hành xử của mình, Lê Quí Đôn không giấu nổi khát vọng lớn ấy.
Nho y lí số vốn là sở học căn bản của những ai đã gồm thông tứ thư ngũ kinh, đã lặn lội cùng bách gia chư tử.
Là quan Bảng nhãn, Lê Quí Đôn rất hiểu vai trò của địa lí đối với một nhà chính trị.Địa lí là hình sông thế núi, là cư dân điền thổ, là nguồn lực nguồn lợi từ con người đất đai mà ra.

Quyển ba của Vân Đài Loại Ngữ, luận về khu vũ, nhiều lần nhà nghiên cứu uyên thâm này bàn về điều ấy. Tiêu biểu ông viết: “ Nhà Hán dựng nên, Tiêu Hà thu lấy những bản đồ và thư sách của nhà Tần. Hán Cao Tổ được những đồ thư ấy mà biết đầy đủ số nhà cửa, số dân chúng nhiều hay ít, mạnh hay yếu và những nơi hiểm yếu trong thiên hạ.”
Không chỉ thuần lí, Vân Đài Loại Ngữ rất chú trọng đến sức mạnh siêu nhiên hợp thành từ long mạch đất đai, điều này tạo nên những luận bàn hấp dẫn kích thích trí tò mò người đọc ngày nay.

Theo quan niệm của ông thì địa lí có quan hệ với việc hình thành tính cách con người. Ông trích lời Tống Kì viết trong bút kí :
“ Miền Tây Bắc là phương cứng mạnh của trời đất, hùng vĩ tôn kính mà nghiêm trang, cho nên bậc đế vương thường khởi lên ở miền Tây Bắc.
Miền Đông Nam đất mỏng mà nước cạn, cho nên sản vật ở đấy dồi dào, của cải ở đấy giàu có, nhân vật ở đấy lanh lẹ mà không trọng hậu, ăn uống xa xỉ mà sống cẩu thả, kẻ sĩ thì yếu đuối mà ít cương quyết.
Miền Tây Bắc đất cao mà nước lạnh buốt, cho nên sinh vật ở đấy ít ỏi, của cải ở đấy nghèo nàn nhân vật ở đấy cương nghị mà gần như ngu ngốc, ăn uống đạm bạc mà sống siêng cần, kẻ sĩ ở đấy thâm trầm trọng hậu mà ít trí huệ.”
Đặc biệt là niềm tin vào tác động siêu nhiên từ long mạch đến hưng vong của các triều đại.

Khảo cứu lịch sử các triều đại phương Bắc, Lê quí Đôn trưng ra nhiều bằng chứng hấp dẫn. Từ việc chọn con đất mà lập kinh đô đến việc coi vượng khí còn dài hay ngắn mà dời đô giữ nghiệp. Lại có những bậc đế vương không tường địa lí, không nghe mưu thần dẫn đến vận khí trơ cạn, mất nước!
Ví dụ: Quách Phác nhận thấy Kim Lăng vượng khí chưa dứt, còn 300 năm nữa, bèn dời đô về Kiến Khang.

Chùa Linh Mụ

Triều Nam Tống đóng đô ở cửa biển Lâm An, dòng nước Đông Nam sớm tối có hai con nước thủy triều. Trong niên hiệu Gia Hy thứ 4 đời vua Lí Tông nhà Nam Tống, cát bồi, thủy triều bị tắc nghẽn. Ngô Tiềm xin dời đô về Bình Giang, vua Tống Lí Tông không chịu nghe theo, thì vừa hơn  hai mươi năm sau nhà Nam Tống đầu hàng nhà Nguyên.
Sở đắt cái học dịch lí, bản thân ông Lê quí Đôn cũng để lại một bằng chứng kinh hồn. Khảo cứu hình sông thế núi đất Tây Sơn năm 1776, ông tâu cùng chúa Trịnh: “Tây Sơn có đất thiên tử, 12 năm nữa sức mạnh của họ sẽ không có ai chống nổi . Đại tướng trấn ở Thuận Hóa e không phải là đối thủ của họ, xin Chúa để ‎mắt đến” .Nhưng chúa Trịnh Sâm cho là lời quá đáng không hề lưu tâm.

Câu chuyện địa lí của người xưa thật quá huyền bí, thật thiên nan vạn nan với người đời nay. Không dám lạm bàn, chỉ là góp thêm đôi chứng cứ vui vui.
Lí Công Uẩn xưa nhân thấy thế đất rồng cuộn hổ ngồi và hình tượng rông bay lên mà dựng kinh đô ở Thăng Long.
Chúa Nguyễn Hoàng được thần nhân chỉ cho thế đất có phong có thủy linh biến bảo triều mà dựng kinh đô ở Huế, lại xây chùa Thiên Mụ để ghi ơn thần  nhân.

Điện Kính Thiên, Thăng Long xưa

Một người anh của tôi vốn am tường thiên văn địa lí nhân nhàn đàm cùng tôi mà bảo: Long mạch quan trọng nhất là chổ con nước chầu về, bình lặng mà không ngưng trệ là thế tốt. Trong các triều đại khi thay bậc đổi ngôi thường bạo sát, duy triều nhà Nguyễn truyền đến 9 chúa 13 vua kể là khá lâu, vậy mà khi mất ngôi thì con cháu vẫn đường hoàng yên ổn, ấy là nhờ vào dòng Hương linh thể, bình lặng mà không ngưng trệ! Lại bảo: Anh xem vượng khí ở cố đô Huế chưa dứt, tương lai thế nào cũng có bậc lãnh tụ lớn cho mà xem!
Lại bảo nhà Tây Sơn tìm được thế tốt nhưng đất ác, bạo phát bạo tàn. Vậy nên chóng tan mà hậu về sau tàn khốc.
Anh vẽ lên hình một cuộc đất ở Bảo Lộc mà anh đã chiêm nghiệm, có long hổ bao bọc đủ chín tầng, rồi trầm ngâm: Nguyên thủ Đông Dương sẽ phát từ đất này!

Thôi thì kính nhi viễn chi, mình có hiểu mô tê gì đâu mà quả quyết. Chỉ là vui chuyện vậy!

.

Nguyễn Tấn Ái.

Buồn Vui Chuyện Nhà Giáo Và Tuổi Học Trò

Trong quãng đời học sinh phổ thông có biết bao nhiêu chuyện vui buồn mặc dầu đời học sinh chan chứa bao sự hồn nhiên, vô tư và trong sáng.

Tôi vẫn chẳng thể nào quên được một câu chuyện buồn xảy ra cách đây cũng khá lâu , khi tôi về trường dạy học được mấy năm .

Đó là năm tôi chủ nhiệm lớp Chín , phần lớn các em là học sinh vùng nông thôn , chỉ duy nhất có  em Lê Trung Nam(lớp phó học tập) là con em cán bộ Nhà nước.Nam khá thông minh, lanh lợi và hài hước .Dáng người cậu bé này nhỏ nhắn , giọng nói trong trẻo, âm sắc cao vút (có lẽ là lúc bấy giờ cơ thể em chưa phát triển hoàn chỉnh , nói cách khác là em vẫn chưa vượt qua tuổi trăng rằm chăng?)

Cùng học chung lớp có em Nguyễn Thị  Quỳnh .Chẳng hiểu sao mà Nam và Quỳnh như mặt trăng với mặt trời ,Nam ghét Quỳnh  ra mặt ? Thời bấy giờ Quỳnh là cô bé xét về diện mạo tuy không xinh xắn như vài cô bé  khác trong lớp nhưng mặt nổi trội của em là có năng khiếu về văn nghệ. Em từng dẫn chương trình nhiều buổi biểu diễn Văn nghẹ của trường và để lại khá nhiều ấn tượng trong giới học trò. Các đợt tập dượt tôi đã lập được một đội văn nghệ và cử em Quỳnh làm đội trưởng.Em cũng là lớp phó phụ trách văn thể mỹ và  đã có nhiều đóng góp cho phong trào Đoàn thanh niên. Em từng dẫn chương trình nhiều buổi biểu diễn Văn nghẹ của trường và để lại khá nhiều ấn tượng trong giới học trò  nhưng lực học của em lại không đều nên chỉ xếp kết quả chung là Trung bình. Bù lại em lại có thiên hướng về các môn xã hội mà nổi trội nhất là môn Ngữ văn.

Được biết Nam đã từng xoẹt hộp quẹt để phóng hỏa làm cháy tóc Quỳnh, rồi sau đó còn xé vở của Quỳnh khi Quỳnh phản ứng về những trò đùa nghịch của Nam. Đó  là việc làm dại dột mà theo tôi nhìn nhận bây giờ là “vô nhân tính” – tuy vẫn biết rằng tuổi trẻ con vẫn chưa hết bồng bột, nông nổi. Không suy nghĩ thấu đáo, không tính đến hậu quả mọi việc, mọi trò quậy phá tai ác… thường là đẳng  cấp  thứ ba (Nhất quỷ- Nhì ma- thứ Ba học trò là thế !)

Chưa hết, cậu ta còn viết những lời thô tục lên bảng để nói xấu, rồi chửi rủa Quỳnh bao lời lẽ hết sức thô tục ! Tồi tệ hơn, khi chuẩn bị kết thúc năm học, trả sách cho Nhà trường , chẳng hiểu sao mà cậu ta còn vu khống rằng Quỳnh đã tráo đổi bìa sách thay cho ruột một cuốn sách khác (gọi là “treo đầu dê bán thịt chó”).

Nỗi  oan ức  như  trời  giáng , nhiều bạn bè đã thanh minh cho Quỳnh, em  đã khóc hết nước mắt để thanh minh rằng em không hề làm vậy.

Ấy thế mà, mỉa mai thay ! đáng trách thay!  tôi lại tin Nam  mà không phải là Quỳnh, tôi còn trách móc Quỳnh là thiếu trung thực (?!?).

Khi lớp tổ chức buổi liên hoan chia tay, Quỳnh không có mặt mặc dù Quỳnh vẫn nạp tiền liên hoan cho lớp,Quỳnh làm giấy xin phép nghỉ v à  gửi lại tôi qua một học sinh khác( lí do Quỳnh có đám giỗ mãn tang ông ngoại !?       Mãi sau này tôi mới nghĩ ra đằng  sau lí do Quỳnh không dự buổi liên hoan, buổi gặp mặt cô giáo và bè bạn  năm học cuối cùng do tôi chủ nhiệm l ại  chuyển sang một  hướng  kh ác ( Quỳnh không tự ái mà là vì Quỳnh xấu hổ khi tôi và một số bạn vẫn cố hiểu lầm Quỳnh là người gian dối và Qu ỳnh quyết đòi lại bằng  được  danh dự và sự công  bằng )

Rồi một ngày, sau  khi chúng tôi nhận quyết định đi làm công tác thi tốt nghiệp, thầy Hiệu trưởng đã gặp riêng tôi và trao đổi

-Có một học sinh lớp cô là Nguyễn Thị Quỳnh,chính hôm lớp cô tổ chức liên hoan đã đến gặp tôi kể cho tôi nghe mọi chuyện mà bao lâu nay em âm thầm chịu đựng. Nào chuyện em bị một bạn cũng là một lớp phó phụ trách học tập chuyên hà hiếp: chuyện em bị  phóng hỏa đốt tóc, chuyện bị xé vở, rồi còn nhiều chuyện mà suốt mấy năm học qua em đã phải câm nín trong lòng. Mãi hôm nay, bức xúc nhất vẫn là chuyện trả sách giáo khoa cho Nhà trường ( thời bấy giờ trường chúng tôi có chủ trương xây dựng tủ sách giáo khoa dùng chung cho học sinh nhưng sách cũng thiếu trầm trọng ) em mới có dịp gặp tôi để báo lại vì em bảo cô chủ nhiệm không tin em, không để em được thanh mính.

Ồng Hiệu trưởng im lặng hồi lâu, rồi tiếp :

-Em Quỳnh vừa nức nở vừa báo cho  tôi trong tâm trạng ấm ức về chuyện hiện tượng trà trộn sách giáo khoa ở lớp cô. Cô xử sự thế nào chứ tôi không tin học sinh Quỳnh này có thể làm chuyện đó vì trông em rất chân chất, thật thà.Vả lại, một khi một học sinh đã trực tiếp gặp Hiệu trưởng mà không phải là Giáo viên chủ nhiệm là cả một vấn đề vì cô thấy đấy, học sinh ở đây rất rụt rè , hiếm thấy em  nào dám đến gặp Hiẹu trưởng

Rồi ông nói tiếp :

–   Cô Lương à, là một giáo viên chủ nhiệm liên tục hai năm với đối tượng học sinh của nguyên  một lớp , lẽ nào cô không hiểu tâm lí tuổi học trò ? Đã có khi nào cô có cách nhìn thiển cận ,chủ quan cho rằng mọi học sinh học khá, giỏi đều không có những góc khuất ? Cô hãy đặt vị trí mình là học trò bị oan khuất đi ! Đã bao giờ cô nghĩ rằng vì oan ức , không giãi bày được  mà học sinh đó có thể làm liều, tự sát ?

Tôi vẫn chăm chú nghe ông nói :

– Cũng may là “Trời xui Đất khiến” thế nào mà em Quỳnh đã đến gặp tôi và tôi đã cho em niềm tin, tôi đã hứa với em sẽ làm rõ việc này để minh oan cho em !

Ông hiệu trưởng lại ôn tồn:

-Tôi còn biết được em Quỳnh đã gặp cô Nga , cán bộ thư viện xin tìm bằng được cuốn sách – mặc dù cuốn sách đó tôi tin là học sinh khác đã cuỗm mất rồi mà biết đâu thủ phạm lại chính là em Lê Trung  Nam “cả vú lấp miệng em”, đã là người “đánh cắp thừa thế” ?

– Vâng…  ạ ! – Tôi bàng hoàng đáp lại .

– Tất cả mọi sự việc không quá trầm trọng nhưng đã cho mỗi chúng ta một bài học, chắc cô hiểu ý tôi ? – Ông nói.

Tôi không biết nói gì thêm , lòng tôi nặng trĩu những trở trăn và thổn thức, day dứt, đàu óc tôi đeo đẳng bao suy nghĩ mông lung …và ngẫm lại thấy mình thật vô cùng đáng trách khó c ó thể tha thứ !

Cũng  may mà tôi đã không hạ bậc hạnh kiểm (Tốt) của Quỳnh và không phê điều gì  quá đáng gây  bất  lợi cho em  vào Học bạ …

.

CưMgr ngày 18 tháng 11/2010

Thịnh Hoa (KQ)

Cuộc đào tẩu của dân văn phòng

Bạn là dân văn phòng? Bạn buộc phải nhốt mình một ngày 10 tiếng trong cái hộp kính kín bưng? Bạn, đôi khi cảm thấy stress và muốn thoát ra khỏi đám công việc buồn tẻ, cứ lặp đi lặp lại từ ngày này qua ngày khác? Đã bao giờ bạn cảm thấy mình chợt thèm biển xanh cát trắng, thèm trời rộng sông dài… Đã bao giờ bạn muốn thoát khỏi thị thành, thế giới mà bạn đang sống và làm việc 24/24? Chắc chắn là có. Và thế là cuộc đào tẩu của dân văn phòng bắt đầu. Nhưng họ đào tẩu đi đâu được nhỉ?

Có hai nơi dễ nhận biết dân văn phòng nhất, đó là cái văn phòng nơi họ làm việc và…khu nghỉ mát. Mọi người thử nghĩ mà xem, những khu nghỉ mát này, trên núi hay dưới biển, những nhà nghỉ hay khách sạn, còn trông mong vào ai ngoài đám Tây ba lô và những đoàn khách cơ quan đổ bộ đến. Chính đám người thứ hai này mới là lực lượng tiêu dùng mạnh và là nguồn cảm hứng của cư dân thị trấn nghỉ mát. Thực phẩm, đồ lưu niệm, họ không chỉ ăn mà còn mua về làm quà và để…ăn tiếp. Chứ mấy ông Tây, bà Tây đời nào mua mấy thứ lẩm cẩm ấy. Tây á, chỉ cần một bãi cát (thế thì ra công trường xây dựng cũng đầy cát), nước biển mặn muối, và quan trọng hơn, một căn phòng khách sạn nước…không mặn. Vậy nên, cảm thấy bất bình lắm thay khi có một số tờ báo viết về du lịch đã coi khách nội địa Việt không ra gì, chê bai đủ điều và làm như họ đi đến đâu là hủy hoại môi trường đến đấy vậy (nhưng nhiều khi báo nói cũng đúng). Họ, nhất là đám dân văn phòng, là những người đi nghỉ nhiều nhất chứ không phải những người nông dân cần cù tiết kiệm hay những VIP đi resort được chăm sóc như chim lồng cá chậu hay đúng hơn là cá bè nước lợ. Họ, dân văn phòng, những người không phải VIP nhưng có tư tưởng như VIP, là những người tạo ra không khí của những bãi biển chỉ nóng vào mùa hè ở miền Bắc và quanh năm ở miền Nam. Nếu họ không đến thì nguyên sơ đây, nhưng mấy cái vòng ốc Cát Bà hay tượng đá Non Nước làm ra bán cho ai? Có mà bán cho…Tây! Nếu họ đến mà không được thoải mái hơn ở nhà hay hơn cái văn phòng sặc mùi máy lạnh thì họ lên rừng hay xuống biển để làm gì? Đi nghỉ mát là trở về với tự nhiên, là cởi bỏ những bộ y phục công sở cứng đơ, mc những gì thoải mái nhất cho da thịt tiếp xúc với trời đất. Vì thế, dân văn phòng nhà ta cứ tự nhiên như hổ về rừng, cá xuống biển…Hà Nôi bé con, quá bé để chứa mấy triệu người đi làm, và một mùa hè đường phố vắng xe máy, bớt người đi lại cũng nên có, giống như một kiểu giãn dân tức thời, và lúc đó, chính lúc đó chứ không phải lúc nào khác, họ, dân văn phòng, lại có mặt nhan nhản nơi đầu sóng ngọn gió hay sơn cùng thủy tận. Khi ấy thì bà con ở quê lại lên Hà Nội thăm Lăng Bác với ăn kem Tràng Tiền hộ. Chả cần nói thì ai cũng thấy đây là một sự tái tổ chức, dù là tạm thời nhưng hoàn toàn hợp lý.

Đấy là một khía cạnh chưa được nói đến bên cạnh ý nghĩa tái sản xuất sức lao động, phục hồi năng lượng đã mất trong quá trình làm việc, còn vân vân và vân vân nhiều ý nghĩa khác nữa như những gì mà Công đoàn Đỏ các nước Âu Mỹ đã đấu tranh đầu thế kỷ trước. Đi nghỉ mát, từ một địa vị phải đòi bằng máu đã được mặc nhiên đưa vào quy chế lao động. Vậy là sau một thế kỷ, nay người ta và nhất là dân văn phòng đã đi nghỉ mát ra sao? Câu hỏi thú vị đây… Nhưng có to tát quá không khi để thời gian lâu như thế nhỉ, những một thế kỷ? Có lẽ chả cần vì chỉ vài năm đi làm là dân văn phòng biết ngay cái vị nghỉ mát nó ra làm sao. Chỉ cần vài năm là công đoàn cơ quan đã phải tua đi tua lại cái vòng “nghỉ mát” căn bản. Nghỉ mát, cũng như làm việc, đã thuộc về quán tính mất rồi. Hãy nói cho tôi xem anh đi nghỉ mát ra sao, tôi sẽ nói anh làm việc thế nào? Đã đi làm thì phải có quyền đi nghỉ mát. Đây không phải là thỏa thuận chung chung mà thành hẳn những điều khoản chắc như cục gạch ở trong các bộ Luật lao động. Đi nghỉ mát là chuyện quá sẵn, nó như một thứ giá trị gia tăng cho đời sống công sở, bên cạnh bảo hiểm y tế, tiền gửi xe được công ty trả trước hay chuyện ngồi làm việc phải có máy lạnh.

Nhưng cũng có lắm chuyện bi hài xung quanh việc đi nghỉ mát, hay nói đúng hơn là làm cuộc đào tẩu tức thời khỏi thị thành. Thời cách mạng công nghiệp lần thứ nhất, công nhân làm việc trong điều kiện chẳng có máy lạnh, chỉ là những xưởng thợ nóng nực, thì việc cuối tuần được đạp xe về miền quê mát mẻ, yên bình như ở bên Tây là điều ai cũng muốn. Nhưng bây giờ, khi những kỳ nghỉ đã trở thành thông lệ, việc đi nghỉ hóa ra không phải là điều mà nhân viên văn phòng nào cũng muốn. Họ chăm làm ư? Chả phải! Họ nghĩ rằng chỉ cần ngồi đánh máy tính trong phòng lạnh là đủ mát? Cũng chả phải! Lý do đơn giản là họ không sẵn sàng đi, trừ khi họ đã chán cái văn phòng đóng hộp, có nhu cầu cần được thoát khỏi thành phố “đường lắm cột đèn, phố nhiều ngã tư” này. Có lẽ bạn đã sốt ruột lắm rồi khi đọc tới đây mà vẫn chưa đi ra khỏi những dòng lý sự kiểu như “to be or not to be/nghỉ mát hay không nghỉ mát”, hãy kiên nhẫn, vì điều này sẽ giúp bạn dễ hình dung ra cảnh nhùng nhằng trước mỗi chuyến đi nghỉ. Bởi vì theo mục đích, sau mỗi kỳ nghỉ mát là một lần sức lao động được tái tạo, con người được tiếp sức mạnh để làm việc tốt hơn. Chán thành thị và không có khả năng vui thú điền viên như những sếp có biệt thự ở quê, cánh dân văn phòng chỉ có thể bằng lòng với Cửa Lò, Sầm Sơn hay Hạ Long, Cát Bà với những suất nghỉ mát công đoàn lo cho dưới một triệu đồng. Thế thôi, còn đòi hỏi gì nữa, ông chủ đã cắn răng để cả công ty đình đốn công việc suốt bốn năm ngày để mấy người vui thú ăn mực ăn ghẹ, chân trần nhảy sóng nghịch cát. Nhưng vẫn háo hức và nhiệt tình làm sao. Ôi chao, đấy là lý thuyết là khi người ta tuổi đôi mươi, khi mà đi nghỉ mát là một niềm vui sướng, kỳ nghỉ là cái gì thiêng liêng và lãng mạn. Kỳ nghỉ lúc đó là khi người ta còn trẻ trung, duyên dáng, khi người ta còn ham thích làm điệu dưới ánh nắng mặt trời để chụp ảnh. Chứ bây giờ á, mặt nhàu như táo tàu với nhau hết cả rồi, đi nghỉ gì mà mới ra đến nhà nghỉ công đoàn ngành là đã tính xem làm sao cho tiêu hết ba ngày để còn về nhà. Vì cái vòng tua “nghỉ mát” đã được tua lại nhiều rồi, riết thành quen. Núi Cô Tiên, đền Độc Cước cây vẫn khẳng khiu nắng đến phát ngốt. Bãi tắm Đồ Sơn rác vẫn nhiều như năm ngoái. Mực năm nay vẫn tanh mùi tanh cũ. Bia năm nay cũng vẫn bia Hà Nội 450ml. Tiếp viên thì vẫn một kiểu đón khách quen thuộc, vẫn là người “muôn năm cũ” nhưng nay đã già thêm một tuổi, mà già đi nghĩa là đã trải qua một mùa du lịch tơi bời khói lửa, hết cả rào trước đón sau, hết cả hương đồng gió nội. Các chị, các em cũng như khu nghỉ mát, như đám người đi nghỉ, rút cục đều tua lại cái vòng căn bản. Vì thế, động tác đi nghỉ mát lặp đi lặp lại một quy trình với dân thành thị. Sớm tắm biển, tối lân la rượu ốc mực. Thú thực số dân văn phòng đi ngắm cảnh thiên nhiên giờ không còn mấy nữa.

Tới đây, một câu hỏi chợt nảy ra. Liệu có xảy ra một cuộc xâm lăng của những binh đoàn văn phòng không nhỉ? Người ta ra sao thì họ đi nghỉ đúng với phong cách con người của họ chứ! Là dân văn phòng, khi xung quanh không phải là những chiếc bàn giấy chật chội mà là những bàn nhậu hải sản, khi máy lạnh được thay bằng gió biển, thiết nghĩ họ không thể lột xác trong một ngày để trở thành người miền biển hay sơn cước ngay được. Ấy thế mà họ quen nhanh lắm. Phải nói rằng, trong xã hội, sau các lực lượng vũ trang “khó khăn nào cũng vượt qua” thì dân văn phòng dễ thích nghi lắm. Nếu những bà con nông dân ngại chuyện thay đổi khung cảnh địa lý nơi sinh sống, thì họ, những người tinh khôn thành thị, một dạng “homo sapiens” đời mới, đi đến đâu cũng đều tự nhiên như ở nhà mình. Chẳng sai, vì người Hà Nội đầy nhan nhản các bãi tắm, bia hơi là bia hơi chính hiệu Hà Nội, dù có cách nhà máy bia trên phố Hoàng Hoa Thám tới 400 cây số hay xa hơn nữa. Vậy là đế quốc văn phòng có mặt ở khắp mọi nơi, khuấy động những khu nghỉ mát mà họ dừng chân hay ghé qua. Có họ, đời vui thật. Nhưng “niềm vui ngắn chẳng tày gang”, cuộc vui nào rồi cũng đến hồi kết thúc, người đi nghỉ nào cũng trở về với đời thường hẹn mùa nghỉ sau. Bởi vì hoạt động về mặt thể chất của các kỳ nghỉ, nói thẳng ra, chả có gì. Nếu không nằm ngủ nướng trong phòng máy lạnh thì cũng chỉ là rủ nhau ta đi khai phá rừng hoang, biển lạ hỏi biển khơi xa đâu luồng… đồ nhắm.

Thoát khỏi thị thành nhưng chưa chắc đã thoát khỏi văn phòng, vì đi đâu cũng gặp dân văn phòng, ló mặt ra khỏi khách sạn là gặp một tên có nét mặt hao hao giống mình, sau một hồi à ờ, gật gù với nhau rằng ta cũng là dân văn phòng như mi. Hay như cứ một phút là lại có điện thoại rung trong túi quần. Điện thoại tình hình công việc nhiệm sở, điện thoại của đứa bạn khóc lóc vì bồ bỏ, điện thoại hỏi kết quả xổ số, điện thoại trận Chelsea gặp Barca cúp C1 đêm qua thế nào…Linh tinh đủ thứ điện thoại cần và…chẳng cần. Thoát khỏi thành thị là thoát khỏi một cuộc sống không hẳn đã trì trệ, nhàm chán, nhưng để đi tìm một cuộc sống khác mới mẻ hơn, năng động hơn cũng chưa hẳn đúng. Nói trắng ra dù hơi tuyệt vọng (và có thể gây hoang mang cho những ai chuẩn bị thành…dân văn phòng) đó là điều không thể có. Có lẽ mục tiêu cuối cùng là tìm ra mình, hoặc nhặt lại mình trên từng ngọn gió, hay tìm thấy mình đang ngồi mải mê say sưa trong những cảm xúc hồn nhiên nhất, hay khi bạn lặn lội cuốc bộ  đứt hơi vào bản Cát Cát, Lao Chải, chỉ để ngắm mấy cô bán hàng người Mông dễ thương, chỉ để mua cho được một cái khăn với những họa tiết thổ cẩm kỳ lạ (theo cách hiểu của bạn khi đó), cái khăn mà nếu mua ở phố Tạ Hiện, giá chỉ bằng 1/3 giá ở đó, nhưng bạn vẫn rất hả hê, vui thích vì cô bạn đồng nghiệp đi cùng đang tỏ ra tiếc nuối.

Thoát khỏi thành thị, đó là trạng thái tức thời mà bạn biết mình sẽ quay về nơi đó. Đi xa, thật xa rồi bạn mới thấy mình dứt bỏ nó khó biết bao. Cái văn phòng đóng hộp, những gương mặt đồng nghiệp thân quen. Con đường một tuần tắc 6 ngày. Khói bụi, ồn ào…Đã có lần, khi đi xa Hà Nội, nhớ thành phố đến mức, sau khi tất cả đã xuống xe, việc đầu tiên tôi làm là vào quán gọi một…bát phở bò. Dù phở Cửa Lò hay bún ốc Mai Châu đều dở ẹc, nhưng như thế cũng đủ thỏa mãn nỗi nhớ.

Vòng cương tỏa của con quái vật công sở thật ghê gớm. Và cuộc đào tẩu của dân văn phòng, “dân được chọn”, giống như cách nói về dân Do Thái trong Kinh Thánh, rốt cuộc chỉ càng khẳng định thêm giá trị của thị thành. Thị thành, có phải đấy là Jerusalem của chúng ta, và văn phòng của chúng ta là “bức tường than khóc”? Nói sao cũng được, nhưng rõ ràng đấy là nhà của chúng ta, và chẳng có ai trong chúng ta lại chưa từng rời nhà nửa bước. Vậy thì sao? Đi thôi!

.

Nguyễn Thanh Mai

Nhãn hiệu của mình

Ngày nay những người nổi tiếng còn nổi tiếng hơn vì nhãn hiệu hay thương hiệu  của riêng họ tạo ra.  Đặc biệt phổ biến như thương hiệu về nước hoa, trang phục, rượu, những công ty, sản phẩm và dịch vụ. Không biết chắc David Beckam có thường xuyên  vung cái dao cạo Gillette như trên quảng cáo không, nhưng Celine Dion bán được nước hoa mang tên Celine, và Jennifer Lopez còn bán được nhiều sản phẩm mang thương hiệu của m ình trên quảng cáo  ngoài âm nhạc như quần áo, nước hoa, và phim ảnh…. . Paris Hilton, Britney Spears và Alan Cumming cũng có nước hoa thương hiệu riêng.

Ca sĩ Mỹ Tâm của Việt Nam cũng có nước hoa My Time với 4 mùi hương khác nhau.

Còn bạn thì sao? Bạn không nhận thức rành mạch điều này, nhưng bạn cũng có nhãn hiệu riêng của mình đó. Bạn có lẽ chẳng cần hay chẳng có chiến dịch quảng cáo nào đánh bóng tên tuổi hay chào hàng cho bạn, nhưng bạn thực sự có chính cái tôi của mình, độc đáo và không giống ai.

Chẳng cần bạn có dạy văn học hay viết văn, làm thơ như các tác giả trên Ban Mai Hồng có giọng văn hay điệu thơ  riêng. Bạn có phong cách của bạn: cách bạn đi đừng, trò chuyện, khóc cười, hành xử…Chính bạn là một quảng cáo biết đi cho những gì  bạn nghĩ, nói và làm.

Bất cứ lúc nào trong giao tiếp, nhân cách, sự trung thực, lòng tốt, những suy nghĩ và niềm tin, năng lực yêu thương, từ tâm của bạn đều được thể hiện. Có thể bạn không bộc lộ hay thể hiện tất cả với những người mới gặp lần đầu hay trong một thời khắc ngắn ngũi, nhưng ít nhiều người tiếp xúc với bạn đều có một cảm nhận nào đó với bạn. Nếu bạn có nhân cách mạnh mẽ, và tốt đẹp bạn để lại ấn tượng sâu sắc và thú vị ở người gặp. Bạn đã để lại cái đặc trưng của bạn hệt như người ta mong đợi ở các thương hiệu Coca Cola, Nike, Chanel, IBM, Nokia,  hay Kim Đan, Trung Nguyên…

Bạn mua một sản phẩm vì niềm tin của bạn vào độ tin cậy, chất lượng, mẫu mã, uy tín, cam kết, và cách mà  bạn cảm nhận về nó. Nhãn hiệu  cho bạn ( dù bạn có muốn dán cho mình hay không) cũng tương tự thế. Bạn có được  niềm tin của người khác vào độ tin cậy, phẩm chất, uy tín, phong cách và cam kết không lời của bạn về nhân cách và những gì rất riêng –  nhãn hiệu tốt nhất của bạn.

Người ta cố gắng tô vẽ, quảng cáo, tạo nhiều thương hiệu cho họ, để rồi họ có thể mất đi sự trung thực, và cốt cách riêng của họ. Những người bạn tiếp xúc có thể ví như “khách hàng” của bạn.  Họ đang mong chờ sự trung thực, lòng yêu mến, sự tin cậy, lời hứa,… nhãn hiệu của chính bạn.

Cũng không ai có thể lấy đi nhãn hiệu ấy của bạn vì đó là tất cả thuộc về cốt cách, phong thái của bạn. Nói một cách chính xác, nó là tâm hồn cùng cảm thức của bạn, và tâm cảm ấy  tạo ra một cảm tưởng và giá trị bền vững ở mỗi người.


Bạn có thể thử đặt câu hỏi và tự trả lời: Mình đã và đang tạo nhãn hiệu gì đây?

Các bạn sẽ thấy vui vì bạn đã tự  nhận ra nhãn hiệu độc đáo của chính mình rồi đó.

Huỳnh Huệ

Mặt trăng yêu thương

Mỗi lần chuẩn bị cắt một cái bánh trung thu, các bạn nhỏ thường hay nhao nhao:

“Em thích ăn trứng”, “Con thích ăn trứng” …

Mình cũng thích trứng 😛 , nhưng khác hơn một chút là thích nhìn thấy cái lòng đỏ
trứng hiện ra như một mặt trăng yêu thương được cả đất trời ôm ấp trong cái bánh  trung thu ấy.

Vũ trụ thật kỳ thú. Một bầu trời thật rộng, tối đen nhưng lại ngự trị một mặt trăng với một màu vàng cố hữu. Mọi người thường hướng về nguồn sáng ấy khi ngước mặt lên bầu trời (với mặt trời thì không thể nhé).

Trăng như là hiện hữu của sự bình an và trông chờ: trăng tròn … trăng khuyết … trăng tròn … Trăng rằm thường rất đẹp, và dường như chính xác hơn là trăng 16. Mình đã từng ngỡ ngàng vì trăng lên rất đẹp, vừa cao khỏi hàng cây, bên bến sông Sài Gòn. Trăng 16.


Ánh trăng có thể làm làm “lấm lem tèm nhem” một ai đó đang muốn khóc, khóc cho vơi buồn, vơi nhớ vì có nguồn chia sẻ.

Trăng là yêu thương, Trăng là chia sẻ.

Mặt Trăng, chỉ có một trên đời.

.

Phương Thảo

Ngàn Dặm Xa

.

( Tặng tất cả những tình bạn của đời tôi)

.

Bởi sự hiện diện  của bạn hữu

đã trở thành nỗi khao khát trong một ngày.

Nhắm mắt lại

thả cho trí tưởng tượng trải dài

Bạn thấy gì không?

Tôi đã đến, tôi đang ở đó

trong con mắt của tâm tưởng

tôi nào có xa

Bạn  chỉ đưa tay ra

trong tiếng thầm thì

Tôi sẽ thành cơn gió

sẽ  ôm choàng bạn

Nếu mắt bạn hướng lên những vì sao

trong trời đêm lấp lánh pha lê

Tôi xin làm mặt trăng

và ánh sáng sẽ dẫn đường cho  bạn

Nếu bạn ngã mình trên mặt đất

dưới ánh dương ấm áp

Tôi xin làm cỏ xanh êm ái

Nếu bạn bước đi

một ngày ướt át

Tôi xin làm mưa

hôn lên vầng trán

Nếu bạn ra ngoài

trong ánh ngày tươi sáng

Tôi xin làm mặt trời

mỉm cười với bạn

Giữa những dặm đường dài

không dài hơn khoảng cách đo bằng nỗi nhớ

Nếu bạn cần tôi như một người bạn

Xin hãy để tôi làm người bạn ấy

hệt  như bạn muốn về tôi.

.

Huỳnh Huệ


Mùa Bàng Chín

Tuổi thơ ta nhẹ nhàng đi qua cùng những mùa bàng chín. Những mắt lá thì thầm suốt mùa xuân, đến mùa hạ xòe ra hân hoan dưới ánh nắng mời gọi của ông mặt trời. Thân cây xù xì, tán lá sum suê như ôm trọn lấy cả một khoảng trời thơ ấu. Khi ta chưa kịp cảm nhận những chùm hoa li ti trắng muốt, bỗng một sớm đã thấy lấp ló trong vòm lá xanh mát từng chùm quả chín vàng, căng mọng. Thế là ta biết bàng đã chín rồi.

Có ai trong chúng ta mà chưa từng có một thuở học trò với những buổi trưa hè không ngủ, trốn cha mẹ lẻn vào trường học để kiếm tìm cho được những trái bàng chín thơm phưng phức kia chứ. Hương thơm của bàng chín rất đặc trưng, rất riêng biệt. Ta có thể nhận ra ngay mùi hương ngọt nhẹ, dịu mát, tưởng như đào nhưng chẳng phải là đào, tưởng giống xoài nhưng cũng chẳng phải là xoài khi cơn gió vô tình lướt qua. Miệng ta ứa nước miếng khi tưởng tượng tới cảm giác được cắn một miếng thật to vào cái cùi dầy dầy, cảm nhận được cái vị chát mà không đắng, chua nhưng lại rất ngọt đang lan tỏa khắp vòm miệng. Cái vị đó hình như giống ô mai, hình như giống vị của những miếng mứt ngày Tết. Chỉ hình như thôi vì nó chẳng rõ ràng và chẳng gì có thể sánh được cả. Trái bàng ngon nhất là bàng quế. Khi chín trái có hai màu, nửa vàng nửa đỏ, mùi thơm phưng phức.

Các học trò nhỏ cũng chia trái bàng ra làm hai loại, bàng đực và bàng cái. Bàng đực quả to, da bóng, thường mọc lẻ loi trên cành xa nhất, nhưng ăn rất ngon. Bàng cái thì từng chùm, từng chùm, mọc ken kít san sát vào nhau trong tâm của chòm lá, quả nhỏ và kém ngon hơn bàng đực. Thật thú vị khi ta cùng đám bạn ngồi vắt vẻo trên bờ tường, đầu đội những chiếc mũ cánh chuồn làm từ ba chiếc lá bàng to tướng, răng thi nhau cắn ngập vào trái bàng vàng ruộm mà hít hà thích thú. Cùi bàng càng nhai kỹ càng thấy ngọt, một vị ngọt rất khác lạ, không lẫn chung với bất cứ loại trái cây nào. Trái bàng tuy đơn sơ nhưng ta và lũ bạn có thể tận dụng hết, không bỏ sót chút xíu nào cả. Sau khi chén hết phần cùi thơm ngon đó, ta gom hạt lại, dùng một hòn đá cuội phẳng để ghè hạt lấy nhân. Nhân bàng có vị nhân nhẩn đắng nhưng tụi học trò như bọn ta rất khoái vì để lấy được cái nhân bé tí xíu đó đâu phải là dễ, có khi tay chân bị trầy trật hết cả.

Ta yêu cây bàng lắm, bởi cây bàng cho ta bóng mát, trái ngọt. Và dường như cây bàng cũng rất yêu ta nên cành lá cứ mãi rung rinh trong gió. Với những cô cậu học trò nhỏ, cây bàng luôn hào phóng. Hào phóng bóng mát, hào phóng hương thơm, trái ngọt. Cây bàng thích ôm ấp ta còn ta thì thích nằm dưới gốc cây tâm sự, rủ rỉ rù rì tất cả những điều thầm kín. Và như thế, ta cảm nhận được sự sống dường như không chỉ có ở ngoài kia, ở trong lớp học, ở nhà mà cuộc sống còn hiện diện ở đây, từ trong lòng đất, từ những mầm cây đang nẩy chồi, từ gốc bàng xù xì, từ tán lá xanh non và từ cả những chùm quả chín vàng ửng. Đấy là ta cảm nhận được như thế, bởi mỗi khi hè về, khi phải xa trường xa lớp, trong lòng ta trào dâng một nỗi nhớ thương. Và có những khi bâng quơ chạy qua trường im lìm cánh cổng, ta thấy cây bàng ủ rũ, đứng lặng lẽ như ngóng, như trông một điều gì…

Cái tuổi học trò hồn nhiên của ta trôi qua cùng với sắc đỏ rực của phượng vĩ, sắc tím ngát của bằng lăng và sắc vàng của những trái bàng chín. Để rồi bây giờ, khi đã trưởng thành, khi đã trải qua muôn vàn những biến đổi của cuộc sống, ta chợt thấy lắng lòng khi bắt gặp những ký ức tưởng như đã bị lãng quên ấy. Và hẳn trong sâu thẳm tâm hồn , dù có ở nơi đâu nhưng mỗi khi hè về, mỗi khi nghe tiếng ve kêu râm ran trong vòm lá, mỗi khi trái bàng chín bất chợt rụng xuống chân ta, cả một khoảng trời thơ ấu mộng mơ bỗng bừng tỉnh, bỗng ùa vào, khiến lòng ta mềm lại trước những chai sạn của cuộc đời.

.

Nguyễn Thanh Mai-Leo

Ngẫm Kiếp Nhân Sinh Cũng Ngậm Ngùi

Lời Bình Bài Thơ  Đứa Con Ngoài Giá Thú, Vương Trọng

Đứa Con Ngoài Giá Thú

Vương Trọng

Đợi về khuya cả phòng đi ngủ

Mẹ nhẹ nhàng ngồi dậy vuốt ve con

Mặc người đời gọi con ngoài giá thú

Con vẫn trong tình mẹ vuông tròn.

Mẹ làm mẹ mà chưa từng làm vợ

Vẫn xuất cơm tập thể quá khiêm nhường

Nửa làm máu nửa chia ra làm sữa

Hạnh phúc nào bằng san sẻ yêu thương.

***

Thôi nhắc chi những năm dài trống trải

Bao vầng trăng vô nghĩa rụng qua đầu

Tóc hoàng hôn thưa dần theo lược chải

Pháo cưới người hay đốt để trêu nhau!

***

Mẹ nhớ lại ngày con còn trứng nước

Người ấy đi như trốn chạy nợ nần

Thèm trái chua mẹ trùm chăn ăn lén

Sợ mắt người như sợ mũi kim châm.



Sinh con ra mẹ vẫn nằm giường một

Có khác chăng là kê lại góc phòng

Ngày nghỉ đẻ phải trừ vào ngày phép

Vuông vải màn làm tả giặt rồi hong.

***

Vài tháng tuổi con đã quen kẻng thức

Mẹ đi làm con lên địu đi theo

Mẹ đào hố trồng cây theo định mức

Lưng mẹ gầy con ngủ giấc cheo leo.

***

Ngày lưng mẹ đêm nằm trên giường mẹ

Mình mẹ lo khi trái gió trở trời

Ngoài giá thú sao ngoài lòng thương cảm

Để người đời ghét bỏ mẹ con tôi?

1998.



Lời bình:

Tôi tình cờ nhặt lại bài thơ ấy trong một quyển vở đã ố vàng, bần thần đọc đi đọc lại, cái cảm xúc buổi đầu tiếp xúc hơn mười năm qua vẫn còn nguyên trong kí ức :Thương cảm dào dạt, đớn đau dào dạt, phẫn hận cũng dào dạt.

Rồi lắng đi bao lớp lớp cảm xúc , cái tồn đọng là nỗi ngậm ngùi.

Vậy nên mới là Ngẫm kiếp nhân sinh cũng ngậm ngùi!

Xin khởi đầu tâm tư bằng một hành xử nhẹ dạ: Khép lại hồ sơ một chuyện tình!

Lại những ngang trái của yêu đương, có gì hay ho ở con tim phản trắc mà lưu giữ, đã hơn mười năm qua từ ngày bài thơ ra đời mà tác giả thơ cũng chỉ một câu kể mà không lời phán xét:

“ Người ấy đi như trốn chạy nợ nần”

Kể ra cái người nào ấy cũng tốt số, người kể chuyện thơ không bắt dấu, tôi đến lược mình cũng không truy cứu nữa.

Ngậm ngùi trước hết là cho một phận người con gái, đến cái yêu thương hạnh phúc cũng một mình thui thủi đậy đậy che che:

“ Sợ mắt người như sợ mũi kim châm”

Mà có lẽ cái câu ngậm ngùi nhất , ngậm ngùi đến một thập kỉ sau mới là đáng nói:

“ Vẫn suất cơm tập thể quá khiêm nhường

Nửa làm máu nửa chia ra làm sữa”

Ai đã qua cái thời ăn kẻng, thức kẻng , làm kẻng, nghỉ kẻng ,ngủ kẻng… nghĩa là sinh hoạt bằng phản xạ có điều kiện vào những năm bảy mươi, tám mươi mới thấm hết cái đau cạn kiệt của lời tự tình kia.

Ở vào cái thời mà dịch vụ quảng cáo nhan nhản những sữa mẹ bồng con mà ngoái lại mới thấm cái rùng mình.

Rồi biết bao nhiêu vén vén thu thu của người mẹ để chia sự sống mình mà cưu mang một sự sống tự chẻ mình nhân ra, nhà thơ đã thể hiện tự nhiên mà cảm động lắm rồi, người đọc tự khắc giao cảm thấm thía, nề hà chi mà kể lại.

Cái ngậm ngùi thứ hai là ngậm ngùi cho một thời.

Cái thời giá trị con người được đánh số, mã hóa bằng hệ thập phân rạch ròi tỉnh táo, lí trí đến quyết liệt khiến không còn cho xúc cảm hay nhân ái chen chân.

Cả câu chuyện ngậm ngùi dài kia chỉ có hai mẹ con còn cái xã hội nhân sinh thì vắng bóng. Xã hội nhân sinh chỉ thấp thoáng trong lời phán quyết : “Con ngoài giá thú”; trong soi mói: “ Mắt người như mũi kim châm”; trong tính toán: “ Ngày nghỉ đẻ phải trừ vào ngày phép”, trong giao khoáng: “ định mức”… Đâu rồi bao giáo huấn “ chị ngã em nâng”, “một con ngựa đau cả tàu bỏ cỏ”?

Thế mới khâm phục cái con người can đảm trụ vững giữa cô đơn, giữa lạnh lùng vô cảm vẫn vững vàng đứng dậy sau khi ngã.

Tôi tin rằng người con đã được nuôi bằng sữa của người mẹ như thế ấy sẽ luôn vững vàng thế tấn giữ cuộc đời cay nghiệt!

Và tôi thương, đâu phải con người ai cũng bản lĩnh như nhau, nên sau hình bóng một con người trụ vững ấy đã có biết bao cuộc đời gục ngã mà mất dấu giữa rừng thẳm vực sâu những mong xóa đi một kiếp đời!

Ngẫm kiếp nhân sinh cũng ngậm ngùi!

Có lẽ đó mới là trăn trở của thi nhân, nên kết cái câu chuyện thương tình này là lời mẹ góa con côi hòa cùng lời thi nhân thống thiết”

“Ngoài giá thú sao ngoài lòng thương cảm

Để người dời ghét bỏ mẹ con tôi?”

Có thể cái câu chuyện kia cũng chỉ là giả tưởng để nhà thơ gióng lên một cảnh báo về một thời cạn kiệt tình người, song tôi, cái tâm của mình lại chẳng thể chịu yên, biết đâu, biết đâu câu chuyện ấy lại là sự thật. Và cái đứa trẻ kia đã vào cái tuổi mười hai. Chao ôi, nó hãy còn bé lắm, mà đời, đã cách xa cái thời ấu trĩ dã man, đã biết phản tỉnh rồi, mà những ứng xử lạnh lùng kia thì bao giờ mới chuộc lại, mà liệu rồi có trở thành vết sẹo trong tầm hồn trẻ thơ kia?

Những muốn lập lại hồ sơ của những đứa trẻ đáng thương, gửi đến chúng những vỗ về an ủi!

Thời đại vốn có thói quen phủi sạch trách nhiệm của mình.

Con người cũng lắm kẻ vốn có thói quen phủi sạch trách nhiệm của mình.

Làm vậy có khác gì công nhiên công nhận tội lỗi là tất yếu lịch sử?

Và câu thơ, lời thơ có giá trị như một cảnh tỉnh, mượn chuyện kể đau lòng để nhắc con người, chủ nhân của thời đại, chớ quên những lỗi lầm, ấy cũng là tư cách!

Vậy nên hơn mười năm đọc lại bài thơ xưa, lòng lại ngậm ngùi.

Xin gửi nỗi ngậm ngùi sẻ chia cùng những tâm hồn mà tôi thương tôi quí!

.

Quế Sơn hè 2010.

.

Nguyễn Tấn Ái

Niềm vui của người bi quan

Chuyện hồi thi đại học (1987):
Sau kỳ thi, mình ngồi cộng đi cộng lại, tính tới tính lui, 3 môn toán, lý, hoá cộng ra chỉ được tới 14,5 điểm. Vậy là rớt rồi. Trong khi mấy thằng bạn tới nhà cứ “nổ” điểm của tụi nó tính ra đến 23, 24 điểm. Ba mình nghe thấy tụi nó bô lô ba la, cứ hỏi gặng mình xem có thể tính thêm vài điểm nữa không. Mình e dè và rất tiếc trả lời không, cho dù trong bụng biết mình tính hơi “mắc”. Đến ngày nhận giấy báo điểm, mình 18 – Đậu. Bạn nổ kia: không đậu. Mình không vui trên cái buồn của bạn, nhưng mình và cả nhà mình thật sự vui vì điểm của mình đạt được là … trên cả tuyệt vời. Cái vui của người bi quan có giá trị gia tăng của nó – vui còn hơn người nghĩ mình sẽ đậu và đậu thật.

Chuyện hồi còn sinh hoạt Đội:
Có lần về quá trễ, mình lo sợ trên suốt đoạn đường về nhà, biết chắc thế nào cũng bị ba la và có thể bị đòn nữa. Vậy mà hên sao là hên, ba không có nhà, ba đi đâu đó về còn trễ hơn mình nữa. Mừng chứ lị. Cái mừng “thót tim” này nặng ký hơn cái mừng của những lúc lạc quan nhiều.

Chuyện thời nay:
Tìm một chân nhân viên ở tuổi 40 quả là không dễ, nhưng vì chị không đủ tự tin, không đủ lạc quan, không đủ mạnh mẽ để đứng vào hàng ngũ “manager” như bạn bè cùng lứa. Cũng có những lúc chị cắn rứt vì đồng lương ít ỏi của mình, nhưng rồi chị vui “dài” hơn vì nếu tính lương bằng sự nghỉ ngơi, sự yêu thương, chia sẻ thì lương của chị là cao lắm lắm . Không đủ lạc quan để trở thành người giàu có nhưng chị thấy đủ và có dư với những gì mình đang có. Thế mà vui và thế là vui, vui ngấm ngầm, vui nghịch ngợm.

Kể chuyện bạn:
Bạn bệnh, buồn và bi quan. Vì biết mình không còn sống bao lâu, bạn trân quý và biến mỗi ngày bạn còn sống thành một ngày vui của mình và của mọi người. Người bi quan vẫn có những ngày vui quý báu và đầy ý nghĩa. Vui chi mà vui lạ. Những người hoàn toàn lạc quan có khi lại không nếm được cái “lạ” này.

Mình thích “bi quan” ở cái “positive meaning” của nó lém lém.
(Mình thích chính mình í, cái của mà người đời hay ghét, hay chê

.

Nguyễn Phương Thảo

Gọi Nắng…

.

Nắng vàng nhuộm bờ ao, hoa cỏ nghiêng chào, nhấp nhánh gương xa.Chạy vạy tìm một giấc mơ yên, trong ngàn giấc mơ, đủ sắc, đủ nhịp, đủ nhớ thương chới với. Khắc khoải một ngày xa, vời vợi, mẹ về với chiêm bao.

Ngày ấy con như hoa cười, mẹ ẵm chăm cho trọn ngày khôn lớn. Màu hoa tím mẹ hay buồn. Miền trung du gội nắng vàng sông xưa, bóng mẹ nghiêng đổ cả buổi chiều. Ran ríu lưng trâu mẹ ngóng gọi con về.Chỉ có mẹ, chỉ có con, quây quần. Con nhớ nhất bữa cơm muối mè của mẹ.

Con tập tành làm kẻ lí giải con tim và khối óc. Mẹ cười bảo: “Ăn vóc học hay”. Thời gian qua kẽ tay, mẹ dạy có vay có trả, có oán có ân, có phúc có phận. Nhìn bầu trời ban mai, con chưa hiểu hết lẽ đời. Nhăn nheo mẹ ơi, thô ráp cả góc trời. Quằn quại mẹ ơi, lòng con buốt lắm! Hoa cúc trắng vẫy đưa mẹ về với đồng xanh cây cỏ; mẹ có nghe lúa hát, mây chào…Con chênh vênh.

Một chiều, con đứng hong mưa nơi phố thị. Hình như chiếc lá cũng biết đau. Đàn gà con côi cút có biết nấp vào cánh mẹ. Con chó vàng có biết nương mình vào góc bếp cho ấm. Nhưng bếp lạnh căm. Không có con, không có mẹ, chúng biết quấn quýt vào đâu! Đợi nhé, ngày trở về.

Mẹ ơi, mẹ có thấy nắng lên rồi không, mẹ!

.

Vũ Hồng

Kể chuyện Lộc Đỉnh Kí- hồi cuối.

Hồi IV

TRAI NĂM THÊ BẢY THIẾP  –  GÁI CHÍNH CHUYÊN MỘT CHỒNG

Ngẫu hứng thế nào khi tưởng tượng cảnh Vi Tiểu Bảo đuề huề bầu đàn thê tử, tôi lại nhớ đến câu tục ngữ này, dù biết ông tốt số họ Vi kia với dân tộc đồng bào này xem ra chẳng bà con hàng họ!

Gái chính chuyên một chồng!

Những bà vợ của Vi Tiểu Bảo khéo hay  lại là những nhi nữ đủ đầy tài năng phẩm hạnh. Mà  cái hạnh tuyệt khéo đến là hiếm hoi ở thời nay lại là đức chính chuyên.

Tiêu biểu cho cái đức này là  Phương Di.

Phương Di người của Mộc vương phủ, trong một lần tấn công vào cung điện nhà Thanh chẳng may thọ trọng thương, rồi lại may mắn lọt vào tay Vi Tiểu Bảo. Bị họ Vi bức ép ra giá chịu nhận làm bà vợ ruột thì mới ra tay cứu giúp. Phương Di cự tuyệt, nhưng lại bị quận chúa Mộc Kiếm Bình năn nỉ mãi, cuối cùng đành gọi Vi Tiểu Bảo mấy tiếng hảo công công! Chuyện ngỡ như đùa, ngay cả Vi Tiểu Bảo dù mặt dày cũng không coi là thật, vậy mà từ đó Phương Di lại đinh ninh xem mình là người của Vi gia rồi! Sau này nàng thành vợ của Vi tước gia thật.

Những bà vợ khác, mỗi người một hoàn cảnh, không ai giống ai, song bảy đóa đệ nhất danh hoa lần lược rồi cũng về nhà họ Vi hết.

Đường tình của Vi Tiểu Bảo cực tốt.

Trai năm thê bảy thiếp!

Vi Tiểu Bảo mồm mép trơn tuột, lại hạ lưu vô sỉ, cái đức vô sỉ của y hiển hiện rõ nhất khi mà y phát hiện ra người đẹp.

Lần đầu y tiếp xúc với nữ nhi có lẽ là tiểu quận chúa Mộc Kiếm Bình.

Tiểu quận chúa sinh ra khi nhà Minh đã mất, tuy thế lòng tôn sùng của thuộc hạ với vương gia Mộc Anh, đại công thần khai quốc của nhà Minh, vẫn còn sâu đậm. Vì vậy mà quận chúa sống trong sự tôn kính và bảo bọc của các nô bộc trung thành, lòng không bợn bụi trần. Rủi bị Vi Tiểu Bảo lừa phải chấp thuận làm bà vợ bé, lại thọ ơn cứu mạng của vị công công kì quặc này nên đem lòng trung trinh bất nhị trao gửi, về sau làm vợ  y. Gã con không cha vậy là kể như ăn hiếp được nhà Mộc vương phủ!

Người mà Vi Tiểu Bảo si mê nhất trong số các bà vợ ruột có lẽ là  Trần A Kha, đệ tử Cửu Nạn, con gái Trần Viên Viên và Lí Tự Thành., cũng tại cái cửa ngõ đầy tai ách này, Vi Tiểu Bảo chịu trăm ngàn khổ nhục, mà cũng thể hiện được tấm chân tình của y. Y một lòng một dạ nhận A Kha làm vợ ruột, lừa sư phụ Trừng Quan bắt nhốt A Kha trong chùa, dập đầu lạy Cửu Nạn là sư phụ để kề cận A Kha. Đổi lại y được đền đáp những gì? Bị A Kha đuổi đánh, dọa chém đầu, lại bị A Kha một lòng một dạ theo Trịnh Khắc Sảng làm y bẻ mặt, thậm chí còn bắt y đi giải cứu Trịnh công tử, Vi Tiểu Bảo đành ngậm ngải mà làm vừa lòng  người đẹp A Kha. Khéo hay cơ trời sắp đặt, cuối cùng A Kha cũng làm vợ đẻ con cho  nhà họ Vi. Thêm một chiếc lá ngọc rời cành vàng rớt nhằm giếng  nước đục!

Trong số các bà vợ chỉ có một bà trị được y là công chúa Kiến Ninh, em vua Khang Hy. Công chúa từ nhỏ trong cung cấm không ai bầu bạn, nên vừa gặp gã thái giám giã Vi Tiểu Bảo liền thân thích si mê, rồi trăm phương nghìn kế mà chăng bẫy, được cái họ Vi cũng dễ tính nên dễ dàng ngã ào vào chiếc bẫy của công chúa,. Họ có một con gái là Tiểu Song Song.

Lãng mạn nhất là sự gặp gỡ với Tăng Nhu, đẹ tử phái Vương Ốc, y hốt trọn ổ bọn đệ tử phái Vương Ốc, trong đó có Tăng Nhu, rồi thay vì chém đầu hết thảy, y lại bày trò gieo xúc xắc quyết định thắng thua rồi giở trò ma chịu thua mà thả hết mà binh lính dưới quyền không hay biết. Đổi laị y được nắm tay Tăng Nhu một cái, bóp bóp, cái này thì y phải kiếm chác! Sính lễ để vừa lòng cô gái là mười mấy mạng người, kể ra Vi Tước gia cũng chơi bời đáo để!               

Cái cơ duyên xảo hợp nhất trong đường tình của Vi Tiểu Bảo là bận y bị  Hồng giáo chủ bao vây ở  kỹ viện Dương Châu. May y dùng kế hạ mông hãn dược ( thuốc mê) vào rượu, hạ được phe Hồng giáo chủ, lại hốt trọn một bầy đàn tay chân gồm những nữ nhi xinh xắn trong đó có cả Hồng phu nhân,  Phương Di, Mộc Kiếm Bình, rủi thay trong số nạn nhân có cả A Kha. Y thoát đại nạn, nhìn ngắm các người đẹp, máu luông tuồng lại nổi lên, liền bế tất cả lên giường, hát bài Thập bát mô , bài hát thịnh hành ở chốn lầu xanh. Sau chuyến này các cô gái xem như bị đóng dấu đỏ của Vi phủ!

Chuyện nam nữ lăng nhăng của Vi Tước gia lê thê từ khi họ Vi trở thành vị thái giám sủng ái nhất của  Khang Hy mãi đến hồi cuối khi y dắt bảy bà vợ đi ở ẩn, tạm tóm tắt bằng vài dòng như thế.

Giờ điểm lại danh tính như sau: Tô Thuyên nguyên là vợ Hồng An Thông, giáo chủ Thần Long giáo, Song Nhi nguyên là a hoàn nhà Trang gia, Phương Di, Mộc Kiếm Bình người nhà Mộc vương phủ, Tăng Nhu đệ tử phái  Vương ốc, A Kha con gái Trần Viên Viên, và  công chúa Kiến Ninh.

Vậy là song song với thành tựu về chính trị của Khang Hy, Vi Tiểu Bảo cũng đại công cáo thành trong sự nghiệp thu phục những người đẹp. Có ý kiến cho rằng hình ảnh gia đình Vi Tiểu Bảo đuề huề chính là ẩn dụ về cục diện chính trị Trung Hoa, cuối cùng thì mọi phe phái chính trị bị dẹp bỏ, đều sống chung một mái nhà. Ý kiến này càng thuyết phục nếu chúng ta để ý đến xuất thân của các bà vợ Vi Tiểu Bảo, mỗi người một thành phần, một môn phái đại diện cho những xu hướng chính trị khác nhau ở Trung Quốc vào đầu đời Thanh.

Ngẫm vậy không sai, song e rằng nghiêm túc quá! Mà giọng điệu chủ đạo của Kim Dung khi viết về Vi Tước gia và các bà vợ cơ bản là nhạo cợt. Nhạo cợt nhất là khi để cho họ Vi hát bài “ Thập bát mô” ở kĩ viện mà chiếm được A Kha và Tô Thuyên, cả Phương Di nữa! Còn cô công chúa Kiến Ninh không có cái phước dân dã  mà vào được kĩ viện nên sau này cứ nằng nặc đòi  Vi  Tiểu Bảo đưa mình vào kĩ viện …cho vui!

Cuối  truyện là cảnh Vi Tiểu Bảo đưa bảy bà vợ về ra mắt Vi Xuân Phương. Vi Xuân Phương cứ nhìn mặt từng cô dâu một mà bình phẩm về nhan sắc bằng cái giọng của một kĩ nữ có nghề! Vậy có thể kết luận rằng khởi đầu và kết thúc cho hạnh phúc của đại gia Vi đều là kĩ viện cả. Thế thì nếu xem hình ảnh này đại diện cho cục diện chính trị Trung Hoa  thời bấy giờ thì tiện thể cũng nên hiểu thêm về ngầm ý của Kim Dung nữa. Vậy câu chuyện thê thiếp bầy đàn kia có ngụ ý gì?

Kim Dung khởi viết tiểu thuyết võ hiệp khi đã rời đại lục mà sống ở Hồng Kông. Năm 1950 gia đình cha mẹ ông bị đem ra đấu tố trong cải cách ruộng đất, từ đó ông mất liên lạc với quê nhà. Trong hoàn cảnh ấy, chắc hẳn trong lòng  tiểu thuyết gia ôm nhiều phiền muộn chán chường, nhất là chán ngán cái trò chính trị nhiều rối ren ma mị. Có phải vậy chăng mà  những nhân vật chính trị trong tiểu thuyết của ông phần lớn là kém phẩm hạnh. Riêng trong Lộc Đỉnh ký thì câu chuyện chính kiến với mấy trò cờ bạc hay cái hứng mua vui ở kĩ viện nào có khác gì nhau! Vậy nên nhất thiết phải mời cho kì được các gương mặt đại diện về Dương Châu cho Vi Xuân Phương ngã giá!

Và cái kết có hậu của trường thiên tiểu thuyết này thoáng một  nhếch mép mai mỉa.

Người kể chuyện cũng nhân chuyện mà  cảm khái:

Xanh kia thăm thẳm từng trên

Vì ai gây dựng cho nên nỗi này!

Kể Chuyện Lộc Đỉnh Ký- Hồi III

Hồng nhan hồ dễ tìm tri kỉ

Anh hùng bất quá mĩ nhân quan!

Trần danh nữ xuất thân  từ một kĩ viện ở Tô Châu, nhan sắc cầm kì dậy cả một phương nên được tuyển vào chốn hậu cung của hoàng đế Sùng Trinh nhà Minh.  Rất tiếc ông vua bất tài này ngay cả cái tài nịnh hót chiều chuộng mĩ nhân cũng không có nốt, số phận cùng danh tiếng Viên Viên cũng thăng hoa từ đó!

Viên Viên bị ban cho Ngô Tam Quế làm tỳ thiếp. Lí Tự Thành nghe danh Viên Viên , tiếc đời danh nữ lại vùi thân nơi mọi rợ nên dấy binh  đánh đến kinh thành cướp lấy Viên Viên. Ngô Tam Quế mất ái thiếp, nổi giận đùng đùng liên kết với giặc Thanh từ quan ngoại đánh tới kinh thành, bức tử Sùng Trinh, cướp lại Trần Viên Viên.

Vậy là một  Trung Quốc rộng lớn oai danh khiếp phục chư hầu trong phút chốc tan tành cũng bởi một  danh kĩ!

Lịch sử Trung Hoa đã có một Trụ Vương và Đắc Kỷ, Ngô Phù Sai và Tây Thi, Đổng Trác với Điêu Thuyền, Đường Minh Hoàng với Dương Quý Phi.

Giờ lại thêm một tấm gương cho hậu thế!

Và hiển nhiên các nho gia liệt Viên Viên vào loại  yêu  nhi ma nữ!

Chẳng có ai dám ngạo mạn mà phạm đến cái mũ nhà nho.

Song xét một đời con người được như Viên Viên  cũng thật đáng ngưỡng mộ.

Hai vua ( Sùng Trinh là vua cuối nhà Minh, Lý Tự Thành sau cũng lên ngôi vua) một chúa ( Bình Tây Vương Ngô Tam Quế) cũng vì nàng mà hành sự.

Nếu mục đích sống là để lại cái danh cho đời thì Viên Viên quả không uổng một đời sống trên dương thế.

Mà nếu có trách thì trách các đấng quân vương binh quyền trong tay lại không biết giữ mình, để thân bại danh liệt chứ hoa phù dung nào tội tình gì! Mà xưa nay biết bao đấng bậc tài tình sau khi đoạt cho mình mọi  công danh lại tình nguyện đánh đổi một khoảnh khắc cận kề cái đẹp, thế mới hay cái giá trị nhất trong đời lại là nhan sắc, dám khuyên không chỉ riêng các ngài tài tử mà ngay cả các nhà đạo đức chớ có coi thường!

Có lẽ cũng cảm cái oan tình nhi nữ mà tài tử Ngô Mai Thôn mới soạn thành Viên Viên khúc.

Riêng hồi này lạm bàn thêm về tao ngộ Trần Viên Viên và Vi Tiểu Bảo.

Hồi kể chuyện Trần Viên Viên thật hấp dẫn một cách hoạt kê, xin tham khảo một đoạn ngắn:

“ Trần Viên Viên nói “ Mời đại nhân ngồi”. Đợi Vi Tiểu Bảo ngồi xuống một tấm bồ đoàn xong, bước tới cạnh tường lấy chiếc đàn tỳ bà xuống, ôm vào trong tay, ngồi xuống tấm bồ đoàn kia, chỉ vào bức tự thư trên tường nói khẽ “ Đây là một bài thơ trường thiên của tài tử Ngô Mai Thôn viết cho tiện thiếp, gọi là Viên Viên khúc. Hôm nay có duyên, xin đàn một khúc cho đại nhân nghe, chỉ sợ làm rát tai người”.

Vi Tiểu Bảo cả mừng, nói “ Hay lắm, hay lắm. Có điều bà hát vài câu thì phải giải thích một lượt, chứ loại tài tử rắm chó như ta học vấn rất tầm thường”.

Trần Viên Viên  mỉm cười nói “ Đại nhân quá khiêm nhường rồi”, gẩy dây đàn một cái tinh tinh tang tang mấy tiếng, nói “ Khúc này lâu quá chưa đàn, nếu có sơ suất xin đừng trách”. Vi Tiểu Bảo nói “ Không cần khách khí. Nếu có đàn sai nhịp ta cũng không biết đâu”.

Vi Tiểu Bảo bản tính gian manh giảo hoạt vậy mà vừa gặp gỡ Viên Viên đã trở nên thật thà khí khái phô bày hết cái học vấn rắm chó của mình đủ thấy hắn được tái sinh! Đó phải chăng là chức năng thanh tẩy tâm hồn của cái đẹp?

Hay họ Vi cảm khái với xuất thân của Viên Viên mà  nuôi lòng đồng bệnh tương lân?

Hay con người ta chỉ gian dối khi buộc lòng phải đối phó với môi trường gian manh để tìm cái sống mà khi thoát khỏi sự kiềm tỏa của đời xung quanh thì cũng có khi trở về với bản lai diện mục của mình? Biết vậy để hiểu thêm ra rằng một khi ở đời còn quá nhiều kẻ lưu manh vô học thì chớ vội chửi người, chỉ là vì cái ô trọc mọc lên từ nền tảng xã hội đó thôi!

Kim Dung thật tài tình trong sáng tạo, tôi không hiểu từ nhất điểm linh khiếu nào mà ông dám đưa thêm vào danh sách những kẻ mê muội tài sắc Viên Viên một gã Vi Tiểu Bảo, như một nhạo cợt cái chính thống, như một biện minh cho mọi thói tật, như một mắng yêu cho một số phận…

Tôn trọng mô tiếp mĩ nhân – anh hùng truyền thống.

Sáng tạo một mô tiếp mĩ nhân – tiểu nhân.

Mà đố ai có đủ can đảm phán xét gặp gỡ nào mới thật là tao ngộ!

Lại hề hà câu sĩ tử ngày xưa cho qua câu chuyện kể “ cao hạ tương khuynh” mà!

.

~Nguyễn Tấn Ái.

Như là hơi thở

Đọc “Marley và Tôi”, lòng tôi tràn ngập sự chia sẻ tình yêu thương với những nhân vật trong truyện. Marley là một con chó thuộc giống tha mồi, to xác và ngốc nghếch, nhưng nó sinh ra trên đời để được yêu thương, một tình yêu thương không giới hạn, không điều kiện của cặp vợ chồng chủ trẻ. Tình yêu thương hiện hữu trên từng trang sách.

Marley đã làm tôi phải suy nghĩ. Đương nhiên là nó cũng có những chiến công đáng nể vì tình yêu thương, sự nghiêm túc và trách nhiệm đối với chủ nhân của nó. Tuy nhiên, nó thật sự gây nhiều phiền toái, phiền toái nhiều hơn là chiến công, như là chuyện nước dãi của nó thường xuyên văng đầy trong xe hơi, và những lần nó phá tan nát căn phòng khi ở nhà một mình… Những chuyện thật sốc nó gây ra đã không hề gây sốc trong tình yêu của chủ nhân dành cho nó.

Marley chỉ là một con chó thôi, một con chó gây nhiều phiền toái, không phải nói một tiếng là nghe, mà lại được yêu thương đến thế. Tôi lại nghĩ đến con mình: con nghiêm túc nhiều hơn ỷ lại, khéo tay nhiều hơn phá hoại. Vậy mà lắm lúc mẹ giận và bỏ mặc con vì những cá tính của con được quy là trọng tội cứ lập đi lặp lại.

Yêu thương làm con người vui vẻ, thăng hoa hơn là tâm trạng giận hờn, đòi hỏi. Nhưng yêu thương vô điều kiện thì không phải là chuyện dễ làm (may ra là dễ nói thôi). Vậy mà tình yêu giữa những vị chủ nhân đáng kính và Marley trong câu chuyện đã hiện hữu một cách tự nhiên và quan trọng như là hơi thở.

Marley, tao cũng yêu mày.

.

Phương Thảo

– 06/2010.

Bé Lan

Cu Ti lừa trái banh nhựa màu đỏ qua phải thì chạm ngay thằng Dũng chạy lên toan cản banh, cu Ti chận banh lại gạt banh ngang bằng chân trái, hất trái banh qua đầu thằng Dũng rồi thật nhanh chạy bên trái ra phía sau, trái banh nhựa cũng vừa rơi ngang tầm chân, cu Ti đưa chân suýt ngay vào khung thành ( cột khung là hai chiếc dép nhật làm thành hai cột mốc). Trái banh bị mu bàn chân cu Ti đá tạt nên đi rầt thẳng và nhanh vào góc trái…tất cả mọi cặp mắt dán vào cái banh, cơ hồ cả thế giới như dừng lại, chỉ có trái banh bay ngang vai đang tiến về  khung thành…

Thằng Đạt, thủ môn hôm nay, đang tuởn g tượng…nó là thằng A, tóc dài bay theo gío, chụp banh dính như keo. Nhỏ Lan sẽ chớp chớp mắt khâm phục…Nó sẽ ôm banh bay đến chín từng mây, hái một ít bông mây về tặng nhỏ Lan…

Chiều nào cũng vậy, trước giờ ăn tối, đường nhỏ Hai Bà Trưng gần Ty Bưu điện trở thành sân banh của đám trẻ xóm này. “Cầu thủ” là đám con nít hai bên đường, khán gỉa gồm bà con hàng xóm và con nhỏ Lan ở nhà đối diện, mà chiều chiều cứ tự động mang đòn, ghế đẩu hay ngồi bệt ngay trước cửa để mà coi đá banh…miễn phí.

_Ê, Đạt! banh kìa…

Thằng Đạt giựt mình, bay thật nhanh phóng về phía góc trái khỏi khung thành gần hai thước, hai tay nó vươn dài ra chụp trái banh dính chắc như bắp, hai đầu gối nó cụng xuống mặt đường nhựa, hai tay vẩn ôm chặt trái banh, mắt nó hướng về căn nhà đối diện, nơi nhỏ Lan má có hai cái núm đồng tiền đang ngồi chồm hổm với me. Thằng Đạt thật hãnh diện, thật là oai hùng , không gì oai hùng hơn nữa vì nó biết nhỏ Lan đã theo dõi cú chụp banh dính tuyệt đẹp có một không hai trên thế giới…nó qùy như vậy cho đến khi thằng Dũng la lớn:

_ Ê, Đạt giao banh đi chớ!

Thằng Đạt gượng đứng dậy, liệng banh lên cho thằng Dũng mà mắt cũng chưa rời con Lan.

_Ê! Đạt, đầu gối mầy bị chảy máu tùm lum rồi kìa. Banh bay ngoài gôn cả thước mà cũng chụp.

Nó biết, hai đầu gối nó đã trầy khi cụng và trượt lên trên mặt con đường nhựa, đau lắm, nhưng thây kệ, nó thấy đáng lắm vì nó nghĩ con Lan sẽ nhớ tới nó với cú nhảy chụp banh tuyệt đời này suốt đời…

… Đã hơn 38 năm rồi, nó còn nhớ rõ chiều hôm đó, không biết “nhỏ” Lan có còn nhớ đến nó không? Không biết con nít xóm Hai Bà Trưng có đá banh như tụi nó không hay đang bận bịu với những đồ chơi điện tử  ngày nay…

.

Phạm Lưu Đạt

Kể Chuyện Lộc Đỉnh Kí

HỒI II

Tâm si, tâm trung, tâm nhũng nhiễu

Đao vương, thần trảo, bán kiếm vô

Hồi này kể chuyện ba nhân vật nổi  tiếng võ công siêu phàm mà quần hùng nghe danh là vỡ mật: Tổng Đà chủ Thiên Địa hội Trần Cận Nam, bách thắng đao vương Hồ Dật Chi và nhất kiếm vô huyết Phùng Tích Phạm. Cả ba được gọi là Đài Loan tam hổ.

Cùng hàng tam hổ, song bối phận, tài năng cùng phẩm hạnh Trần Tổng đà chủ hơn hẳn hai nhân vật kia. Người đương thời truyền tụng câu: “ Bình sinh không biết Trần Cận Nam, có tiếng anh hùng cũng uổng phí.”

Trần Cận Nam nổi tiếng với công phu ngưng huyết thần trảo, một trảo công ra thì đối thủ trong hai canh giờ khí huyết sẽ ngưng tụ mà chết. Song là chính nhân quân tử, Tổng đà chủ cũng nhận thấy công phu này có phần bá đạo nên không phải trường hợp quan yếu thì quyết không dùng đến. Trong truyện cũng chỉ có một lần đà chủ thi thố tuyệt kĩ công phu là khi phải khống chế Lí Tây Hoa để bảo vệ tuyệt mật của bản hội.

Lộc Đỉnh kí đã thật hấp dẫn với những hồi nhân vật anh hùng này xuất hiện, nhất là các hồi  Cận Nam giải phóng Tra Y Hoàng khỏi móng vuốt của bọn chó săn nhà Thanh, kịch chiến cùng Phùng Tích Phạm, võ công khuất phục Thi Lang.

Trần Cận Nam là bề tôi trung của Trịnh Thành Công chiếm cứ Đài Loan gương cao cờ phản Thanh phục Minh. Mưu trí hơn người, tài năng trác tuyệt, tâm chánh hành trực, tổng đà chủ được giang hồ nể phục.

Song cơ trời đã bỏ nhà Minh, nên một đời bôn ba của Trần Cận  Nam cũng thành bọt biển, cuối cùng bị chính con trai Trịnh Thành Công là Trịnh Khắc Sảng ám toán, chết oan uổng trên đảo Thông Ngật. Thiên Địa hội cũng theo số mệnh đà chủ mà tan rã.

Trần Cận Nam anh hùng thì thật anh hùng, chỉ tiếc cơ trí mà cố chấp, biết khí số nhà Thanh đã hết mà vẫn bôn ba, biết Trịnh Khắc Sảng hèn hạ mà không đề phòng, biết Phùng Tích Phạm gian giảo mà không tiêu diệt, để cuối cùng uổng tấm thân bảy thước.

Đó là hình bóng của những kẻ mang  quan điểm ngu trung mọi thời, đáng thương mà cũng đáng trách.

Song nghĩ lại âu cũng là mặt trái tất yếu của tri thức, mấy ai đủ can đảm từ bỏ mớ học thức mình một đời gom góp được, thành tôn thờ đến mức mê muội, đến thành nô lệ, thành tín đồ mù quáng.

Lắm kẻ khi luận sự đời cứ xơ cứng chết khô, một lời bàn luận cứ y như là trích dẫn từ chương cú  lạc hậu lỗi thời ma mị ra, đem cái máy móc mà phán xét sự đời, cầm tù mình đã đành, lại còn soi mói nhân thế. Lỡ nuôi thêm cái tâm chim cú thì tàn hại đời vô kể chứ đâu chỉ hại mình!

Thương ôi, may mà Trần tổng đà chủ tâm trung trong sạch, nhất bái cung tiễn!

Đứng thứ hai trong Đài Loan tam hổ phải kể đến Hồ Dật Chi, danh hiệu bách thắng đao vương.

Đao vương xuất hiện rất ít ở trong truyện. Y chỉ hiển lộ thân thủ một lần khi quyết đấu ngang ngửa cùng Phùng Tích Phạm trên sông Liễu Giang.

Điều lạ lẫm ở nhân vật này không phải là võ công mà là hành xử.

Hồ hiệp sĩ mê danh nữ Trần Viên Viên, song tự biết danh phận và thế lực mình khó có thể ngang bằng với Lí Tự Thành, Ngô Tam Quế, nên chỉ chờ khi Trần Viên Viên đi tu thì tình ngyện làm sải già quét tước canh gác cho mĩ nhân để thỏa một đời được gần gũi người đẹp! Ngẫm nghĩ món hồi môn Hồ hiệp sĩ cung tiến mĩ nhân  cũng đáng cho hậu thế ngậm ngùi!

Hèn gì bối phận hơn hẳn Vi Tiểu Bảo mà Dật Chi vẫn sảng khoái khoái kết tình huynh đệ với Vi Tiểu Bảo, ý hẳn là đồng bệnh tương lân! ( Bởi Tiểu Bảo cũng mê A Kha con gái Trần Viên Viên như điếu đổ.)

Võ công cao mà danh phận không màng.

Không chịu lụy mình vào mấy trò chính trị đa trá đa ngụy.

Một đời đam mê cái đẹp, thờ phụng cái đẹp cho thỏa chí mình!

Ứng xử kể vào hàng cốt cách.

Bách thắng đao vương xuất hiện chớp nhoáng , đao pháp chớp nhoáng để người đời thán phục rồi  nghiễm nhiên tại vị là một kẻ tình si. Có cái thân thế và thân thủ ấy bảo lãnh, ai dám cười gã một đời dại dột.

Mỗi đời người có một chọn lựa: Kẻ chuộng bạc tiền, người tham quan chức. Kẻ bán mạng cho chính trị, người  điên đảo với hư danh rốt cuộc cũng chỉ những trò chơi, vậy mà lắm kẻ lên mặt kiêu ngạo với trò chơi nhiều thắng thua ấy.

Hồ hiệp sĩ chọn riêng cho mình một nẻo chơi, và ngang nhiên thống khoái thách đố những cười nhạo của bọn bằng hữu giang hồ. Ứng xử ấy trung thực với mình và can đảm với người đời. Kể ra không phải bản lĩnh võ hiệp mà chính hành xử ấy mới vào hàng cao thủ.

Xin được kết giao cùng Hồ bằng hữu!

Người cuối cùng kể đến là Phùng Tích Phạm.

Họ Phùng võ công lẫy lừng, lại vô sĩ đa trá, kể ra trong tam hổ hắn đáng sợ nhất.

Nổi tiếng nhất kiếm vô huyết, mỗi chiêu kiếm xuất ra, chưa trọn kiếm chiêu, chưa thấy lưu huyết mà đối phương đã thọ trọng thương, thật là công phu thượng thừa.

Hắn võ công ngang hàng nhị hổ kể trên, nhưng lại hai lần chiếm thượng phong nhờ ám toán một cách vô sỉ.

Giang hồ nguyền rủa còn Trần ,Hồ thì chỉ thoát chết trong đường tơ kẻ tóc. Tiện cũng kể thêm ấy là vỏ quýt dày gặp móng tay nhọn, hắn bất thần ám toán Hồ Dật Chi, Trần Cận Nam lại bị chính gã tiểu lưu manh Vi Tiểu Bảo dùng vôi bột ám toán lại, hắn hạ lưu lại bị chính hạ lưu vô sỉ đánh bại.

Phùng Tích Phạm là sư phụ của Trịnh Khắc Sảng, về sau hai thầy trò cùng đầu hàng Khang Hy, dâng Đài Loan cho nhà Thanh, họ Trịnh được phong tước công, còn Phùng thì thọ danh Trung Thành bá.Về sau  Vi Tiểu Bảo báo thù cho sư phụ, hại Trịnh Khắc Sảng tán gia bại sản, còn Phùng Tích Phạm thì bị lừa đem ra pháp trường chém đầu thay cho tử tù Mao Thập Bát.

Khắc tinh của Phùng Tích Phạm cuối cùng lại chính là Vi Tiểu Bảo.

Phùng Tích Phạm với đời sống của y có ý nghĩa gì?

Hắn đáng sợ bởi vừa cao cường vừa vô sỉ.

Hắn là hình bóng của lắm kẻ trong đời, vô sỉ và đem bản lĩnh của mình mài nhọn cái vô sỉ, trở thành nỗi ám ảnh của nhân thế.

Những kẻ vô sỉ lại nhơ nhơn tự đắc, lại còn học hàm học vị, lại thế gia chức tước đi kèm, lại càng tác hại lắm lắm.

Mà những kẻ ấy thì đời nào lại thiếu!

Lại to nhỏ đủ loại, rộng hẹp đủ mặt, đến trốn vào chiêm bao còn gặp hắn nữa là!

Loại ấy nếu không học được cái môn công phu của Vi Tiểu Bảo để mà dĩ độc trị độc thì chỉ còn có sách kính nhi viễn chi!

Đài Loan tam hổ ba gương mặt thượng thặng là bao lời nhắn nhủ: Ba cái hại đời hại mình là siêu, si, trá.

Mà đời ấy nhũng nhiễu, không siêu, không si, không trá liệu rồi có dược yên thân?

Ngẫm các sư chùa Thanh Lương cố giữ cho mình cái tâm không bị hoặc bởi cái siêu, cái si, cái trá rồi cũng bị đời hồ đồ đuổi theo bách hại.

Ở đời khó thay!

Thôi thì nếu phải chọn một nẻo để hóa thân thì kẻ yếu bóng vía này đành chịu miệng thế chê cười mà  theo chân Hồ đại ca làm sãi già một đời cho thỏa thích!

.

Nguyễn Tấn Ái

Hè 2010

Khóc

Buổi sáng một ngày hè, mẹ cảm thấy mệt và đuối nhiều hơn những ngày trước. Mẹ muốn ngồi thụp xuống khóc một mình, nhưng cũng chẳng có một chỗ có thể ngồi.  Chuyện gì thế nhỉ?  Tiền học của các con, sinh hoạt phí của gia định, thời gian đưa đón, và sức lực còn lại.

Mùa hè này, các con lại mắc vào guồng sinh hoạt mà đã có không ít những lời lên án:   hè mà học, học mà bảo là hè. Mẹ vẫn luôn muốn ngắm nhìn các con chơi đùa hoặc tập trung làm điều gì các con thích. Vậy mà tối về sum vầy, mẹ vẫn luôn miệng nhắc các con làm bài tập cô cho về nhà.

Mẹ cảm thấy mình có lỗi với mọi người trong gia đình và với cả bản thân mình nữa.

Mẹ chưa liên lạc được với bên điện thoại vì sao cước tháng rồi tăng vọt, chưa tìm hiểu được cái bill điện breakdown sao mà ra đến 7-8 dòng vượt định mức, chưa …, chưa …, và chưa …

Mẹ nhớ ông bà ngoại. Hôm qua cơ quan mẹ có tiệc ở lẩu nấm ASHIMA. Từng chén đầy nấm, đầy bổ dưỡng làm mẹ nhớ ông bà ngoại. Biết làm sao mời ông bà ngoại ăn được một lần cái lẩu nấm này.

Mẹ cảm thấy đói. Đói vì trong người thiếu sách, thiếu báo, thiếu thơ, thiếu nhạc, thiếu tình cảm, thiếu giờ đi mua sắm, thiếu giờ tập yoga.

Chuẩn bị đi làm, mẹ muốn “ngụy trang” một chút, nhưng hộp phấn trang điểm đã hết cả tuần nay chưa mua mới được. Ở ngoài đường, càng không ai quan tâm đến mình. Thậm chí mẹ si-nhan qua đường mà còn không được nhường đường.

Đến cơ quan, mẹ đi cầu thang bộ lên văn phòng ở tầng 2. Từng bước, từng bước đi lên   để thấy mình vẫn còn bước được. Rồi mẹ lại đi xuống, từng bước từng bước như từng ngày rồi từng ngày trôi qua. Có ngày buồn, có ngày vui; có ngày được, có ngày mất; có ngày thất bại, có ngày thành công.

Tưởng là nước mắt đã lặng lẽ rơi, nhưng không, hình như chỉ là cảm giác ngộp thở. Và mẹ vẫn thở, cố kéo dài hơn, sâu hơn những hơi thở gấp của sáng nay. Mẹ quyết định im lặng, bình tĩnh và im lặng, im lặng nhưng vẫn mỉm cười với mọi người, vì mẹ biết rằng ngày mai sẽ khác đi.

.

Nguyễn Phương Thảo

Kể Chuyện LỘC ĐỈNH KÝ

Kim Dung, chủ bút tờ Minh Báo, có lẽ ít được biết đến với tư cách một chủ bút bằng tư cách là đại gia trong ngành tiểu thuyết võ hiệp với tổng cộng mười hai bộ trường thiên, ba bộ đoản thiên.

Trong sự nghiệp đồ sộ ấy, có những bộ  từng tung hoành trong khắp các học đường, giảng đường ở Việt Nam, nhất là thời trước 1975 như: Võ Lâm Ngũ Bá, Xạ Điêu Anh Hùng Truyện, Ỷ Thiên Đồ Long Kí.

Thế giới nhân vật của Kim Dung phong phú đa dạng và hấp dẫn với phong cách hiệp nghĩa giàu sức chinh phục.

Khó có thể phân cao thấp giữa các bộ sách, cũng bởi mỗi người đọc lại có một sở thích và cảm nhận khác nhau. Nhưng theo thiển ý thì có lẽ  tại hạ thích nhất là hai bộ: TIẾU NGẠO GIANG HỒ và LỘC ĐỈNH KÍ.

Nhân gần đây trên VTV3 có chiếu lại bộ phim LỘC ĐỈNH KÍ nên cũng muốn nhàn đàm vui vui cùng bạn đọc theo cái kiểu trò chuyện dông dài mà tuyệt đối không phải là khảo cứu.

Mục đích cũng chỉ “ vui thôi mà” nên mời mọi người cùng góp chuyện, và gác lại những bất đồng trong học thuật. Vui thôi mà!


Hồi I: Sẩy chốn lầu xanh Vi Tiểu Bảo anh hùng tứ xứ

Ngự Lộc đỉnh công thằng tiểu quỉ ngạo chốn vương hầu.

Hồi này luận chuyện Vi Tiểu Bảo, nhân vật chính của Lộc Đỉnh Kí.

Tiểu Bảo xuất thân hèn hạ, mẹ là Vi Xuân Phương, một kĩ nữ chốn Dương Châu, vùng nỗi tiếng yên hoa tam nguyệt.

Cha y thì thôi đủ loại Mông, Hồi, Mãn, Hán… May mà không có Tây dương!

Có thể nói đến hai phần ba học thức mà hị Vi kia có được là từ những khách thập phương lúc trà rượu nhàn rỗi kể lại .Tức là học thức cóp nhặt không đầu không cuối.

Cũng vì giữa chốn ăn thua, lại cô thân cô thế, nên món võ công thượng thặng mà Tiểu Bảo thành đạt cũng chỉ là món võ mồm và sự giảo hoạt siêu đẳng.

Tình cờ kết giao với gã giang hồ Mao Thập Bát, được họ Mao đưa lên Bắc Kinh.

Giữa chốn hiểm nguy, dụng kế làm mù mắt Hải lão công, giết chết Tiểu Quế Tử, cứu Mao Thập Bát, rồi tự mình giả làm Tiểu Quế Tử, nhơn đó mà hí lộng vô pháp vô thiên nên kết thân cùng  Khang Hy dưới tên gọi Tiểu Huyền Tử.

Từ đó đường mây nhẹ bước, liên tiếp tiến chức thăng quan.

Sự tình cờ đẩy đưa, Vi Tiểu Bảo rơi vào Thiên Địa hội, trở thành hương chủ thiên địa hội.

Y nhờ thân tín với Khang Hy mà liên tiếp lập công với Thiên Địa hội.

Lại nhờ Thiên Địa hội mà lập công với Khang Hy.

Đến cuối cùng, Thiên Địa hội tan rã, Khang Hy vững vàng, Vi Tiểu Bảo cắp bảy bà vợ đẹp như hoa như ngọc trốn khỏi tầm quản thúc của Khang Hy về lại Dương Châu mai danh ẩn tích một đời còn lại thỏa cái thú vợ con tiền của.

Có lẽ nên gọt nhẹ để lại cái lõi của cuộc đời Vi tước gia là thế.

Giờ bàn về cá tính Vi Tiểu Bảo.

Khác với những nhân vật phi thường trong tiểu thuyết Kim Dung, thường chinh phục mọi người bởi khí phách anh hùng, đan tâm hiệp cốt.

Vi tiểu Bảo thì đến một cái vảy anh hùng cũng không có. Có lần  bị anh em họ Bạch ở Mộc gia bóp cổ tay sưng vù, họ Vi miệng oai oái kêu đau, mặt hăm hăm bắt đền ăn vạ, không khỏi làm quần hào Thiên Địa hội một phen bẽ mặt.

Đan tâm thì như Khang Hy có lần phủ mặt thân thiện: “ Đến như ngươi mà trung tâm bất nhị  thì thiên hạ không còn ai điêu trá nữa.”

Tính khí thì thôi đủ tật xấu xa: Ham đánh bạc ăn gian, hễ thấy gái đẹp thì đến chết cũng theo kì cùng! Bởi vậy mà giữa chốn triều đình vẫn có gan giấu hai gái đẹp đang bi truy nã là Mộc Kiếm Bình với Phương Di. Dù bị A Kha đuổi đánh dọa chém vẫn cứ một hai xin làm đệ tử của  Cửu Nạn để được gần kề A Kha.

Chí hướng thì ngay khi lên đến tước công vẫn không nguôi mơ màng về lại Dương Châu mở dăm bảy kĩ viện!

Vậy mà con người không ra gì ấy lại liên tục thăng tiến, luôn được trọng vọng, trong triều đình nhà Thanh và cả trong các thế lực phản Thanh. Nguyên nhân?

Trước hết là sự may mắn.

May mắn lớn nhất đời y là ngẫu nhiên tình cờ làm bạn với Khang Hy.

Khang Hy oai trời mà tịch mịch. Ai dám làm bạn với vua! Lại còn con trẻ, lại càng tich mịch. Vi Tiểu Bảo vì giả làm thái giám nên đến vua cũng chẳng nhận ra. Thế là rủ nhau đấu vật, tỷ võ, rủ cả ăn trộm thức ăn của ngự thiện phòng, tức rủ vua bốc trộm thức ăn của vua. Khang Hy dù nằm mơ cũng không tưởng đến phúc dày có ngày được một người bạn thành thật đến thế. Rõ thật là bảo bối!

Mà suy cho cùng cũng chỉ có thằng tiểu quỉ Vi Tiểu Bảo vô pháp vô thiên mới hí lộng quỉ thần cỡ đó.

Mà trong bề tôi của Khang Hy cũng chỉ có một Vi Tiểu Bảo mới trung hậu thành thật khai báo:

–         Đối với bệ hạ đôi khi thần dập đầu thành thật, mà cũng nhiều khi dập đầu qua loa cho xong chuyện!

Mà trong bề tôi của Khang Hy cũng chỉ có một Vi Tiểu Bảo mới có cái phước nhận được đạo thánh chỉ vô tiền khoáng hậu: “ Tiểu Quế tử, con mẹ nó, ngươi đi đâu thế? Ta nhớ ngươi lắm, thằng đầy tớ xấu xa nhà ngươi vô tình vô nghĩa quên lão tử rồi à?”

Sau nữa là sự khôn ngoan gian giảo.

Vi Tiểu Bảo sinh ra  lớn lên ở kĩ viện, trưởng thành chốn hoàng cung, mà hai nơi đó lại chính là hai nơi trá ngụy nhất trên đời, thành bản tính y. Chỉ có điều y xem những chuyện kia hiển nhiên là phải thế. Đánh không lại thì phải dùng tiểu xảo như chặt chân, tráo ngựa, tung vôi bột, cùng lắm thì ầm ỹ kêu khóc. Với thiên hạ là hạ lưu, với y là thượng sách. Biết được tính nết hèn hạ của vị đệ tử này, một trong những sư phụ của y là Trần Cận Nam , tổng đà chủ Thiên Địa hội có căn dặn: “ Ta trong võ lâm tiếng tăm không nhỏ, thân phận không thấp, ngươi đừng làm ta mất mặt” thì ngay lập tức được y trả giá:Con có lúc cũng không muốn mất mặt, có điều nếu mất mặt thì cũng không có cách nào. Ví dụ đánh không lại người ta, bị người ta bắt được bỏ vào thùng táo chở đi như một kiện hàng thì sư phụ người cũng đừng trách”.

Biết được Khang Hy rất quí cái thân tình thuở nhỏ, có lần có chuyện khó tâu, y đánh bài liều hét lên: “ Tiểu Huyền tử, Tiểu Quế tử có điều muốn nói”, Khang Hy lập tức bị y giáng chức mà không thể dụng cái uy quyền của một ông vua. ( chuyện về khang Hy mạo nhận là tiểu thái giám Tiểu Huyền tử đã lược kể ở trên)

Y cũng có lúc bạo phổi mà bộc bạch với vua: “ Tính đệ tử có chút gian gian xưa nay sư phụ cũng biết rồi” ( Y cũng nhận Khang Hy làm sư phụ)

Y lừa Khang Hy, qua mặt Trần Cận Nam, tiêu diệt Thần Long Giáo, bắt sống Ngô Ứng Hùng đều như những canh bạc, như chơi bài cẩu.

Mà phương diện gian gian thì quần hùng không thể bằng y. Sư phụ không bằng y. Vua cũng không bằng y.

Chính mẹ y cũng nhận xét y giống gã cha hờ ở hai con mắt kẻ cướp!

Song trong trăm nghìn nết xấu,Vi Tiểu Bảo cũng còn một tính tốt: Y trọng nghĩa khí.

Một lời kết giao thì không bỏ Mao Thập Bát.

Không vâng lời nhưng rất yêu kính sư phụ Trần Cận Nam.

Vì tình thân mà xả thân cứu Khang Hy thoát mũi kiếm của Cửu Nạn.

Thiên Địa Hội muốn y hại Khang Hy thì y không hại.

Khang Hy muốn y tiêu diệt Thiên Địa hội thì y không làm.

Khang Hy đã luận công Vi Tiểu Bảo như sau:

“ Ngươi đối với bằng hữu rất biết nghĩa khí, đó là nết tốt…Ngươi thà chết không chịu phản bạn, không vì vinh

hoa phú quí mà bán đứng bạn bè, kể cũng là hiếm có, rất có phong thái cổ nhân. Ngươi đã không chịu phản bạn ( Thiên Địa hội), tự nhiên cũng không phản ta. Tiểu Quế tử, ta tha tội cho ngươi không phải vì công lao trước đây, không phải vì hai chúng ta từ nhỏ đã rất hợp nhau, mà còn vì ngươi coi trọng nghĩa khí thì không có gì là xấu”

Có thể nói Vi Tiểu Bảo không thể đứng vào hàng anh hùng hay quân tử. Nhưng cái nết tốt nhất của chính nhân quân tử thì may mắn y lại giữ được. Đó cũng là  cái lạ ở nhân vật Vi Tiểu Bảo. Là điểm học thức khả dĩ ở y.

Luận chuyện Vi Tiểu Bảo mà không luận về học thức ở nhân vật này thì e rằng còn thiếu sót.

Vậy Vi Tiểu Bảo đại diện cho triết lý gì của  Kim Dung?

Xét lại nền học thức Trung Hoa với nhân nghĩa lễ trí tín làm rường cột đã ngự trị hàng ngàn năm, hoặc lâu hơn nữa khi đến với Vi Tiểu bảo thì chẳng trở nên nghĩa lí gì.

Y thuở nhỏ cũng nghe kể nhiều về anh hùng với mĩ nhân, về lễ nghĩa, trí tín. Nhưng chỉ toàn là những chuyện nghe mà không thấy. Đến khi y vào đời thì thứ học thức ấy toàn vô dụng vì không có lợi, dụng đến e khi mất mạng, mà mất mạng thì phỏng học thức có ích gì! Nên y toàn chế hóa từ vốn thực nghiệm mà thôi.

Ngẫm quần hùng Thiên Địa hội một lòng trung quân ái quốc mà đến chuyện thờ ai cho phải cũng cãi nhau đến thành một trường hồ đồ. Rốt lại chân lí không rõ ràng.

Trần Cận Nam nổi tiếng anh hùng mà vì tiếng trung quân nên bị Trịnh Khắc sảng làm hại, chết một cách phi lí và oan ức.

Thuận Trị bỏ ngai vàng mà đi tu cũng vì không biết xử đạo nhà ra sao cho phải.

Rốt lại những đám người có tri thức trong truyện hoặc là tri thức không đến nơi đến chốn, hoặc tri thức không thông, hoặc tri thức không thực tế.

Mà tri thức đời nào cũng thế, làm sao mà thực tế!

Rồi cứ đem cái hình bóng không có thật của lí tưởng để hại người, hại mình.

Vi Tiểu Bảo vì bản chất gian giảo nên không khó đọc ra cái gian giảo của lí thuyết.

Vì thế học thức với y cuối cùng rốt lại là những câu vui vui:

Một lời nói ra ngựa tử khó đuổi ( y nghiệm ý “ tứ mã nan truy” thành ngựa chết rồi thì khó đuổi theo)

Vua là  Điểu sanh ngư thang ( y nghiệm câu Nghiêu Thuấn Vũ Thang thành bát canh thịt chim cá)

Cái gì đó trong cái gì với cái gì ngoài ngàn dặm ( Chuyện trù tính trong trướng mà quyết thắng ngoài ngàn dặm với y chỉ là thứ rối rắm gì gì)

Rốt lại y là hiện thân của một thời kì tri thức suy tàn rỗng tuếch mà mớ lí thuyết chính trị chết khô chỉ tổ làm trò cười cho lũ tiểu lưu manh vô học.

Bao phe phái chính trị trong Lộc Đỉnh kí tan tành, chỉ Vi Tiểu Bảo nhơn nhơn đi nghêu ngao trí trá bên bờ lí thuyết mà tồn tại.

Và kịp thời lẩn khuất trước khi nhà Thanh đến lược mình cũng cáo chung!

Nhân vật Vi Tiểu Bảo đôi khi lại là một triết lí!

Xong hồi một

Hè 2010

Nguyễn Tấn Ái

Thơ Ơi! Đừng Là Khúc Độc Hành

1/ Không trở lại vấn đề vừa mới đã trở thành cũ – thơ, phản thơ – người đọc thiện chí buộc phải nhận ra dẫu còn trăn trở và khắc khoải rằng “thơ mới” Việt Nam thế kỉ 21 đang khấp khởi xuôi dòng.

Tôi không phải là con đò. Chỉ là một khách bộ hành đứng đâu đó ven sông. Soi mình trong một chiều tịnh vắng, tôi muốn cất lên với riêng mình “Sông ơi, đừng là khúc độc hành”!
Cái mới bao giờ cũng tự mình đối diện với các phản lực. Nhớ lại “một thời đại trong thi ca”, thời đại mà cả một hệ thống thi pháp buộc phải thay đổi theo qui luật phát triển nội tại và tiềm năng của văn học dân tộc, đã làm cho không ít người có ý thức nghệ thuật trở thành lực phản của một dòng chảy đang đến hồi không cản được. Các lực phản ấy nhiều khi lại cần thiết, kiểu luật sư và công tố viên trước phiên toà, nó không kiềm hãm mà tạo nên một điều hoà – tự thân, diễn ra ngay trong ý thức người sáng tác – để từ đó mà vượt lên với một tư biện sâu chín. Cũng còn có lý do thứ yếu rằng, ở Việt Nam ta cái mới trên nhiều lĩnh vực kinh tế, văn hoá, văn nghệ thường đến một cách hồ hởi và được cộng đồng tiếp nhận cũng hết sức vô tư nhiệt tình, nhiều khi thái quá (có chủ quan không?).

Riêng trong lĩnh vực thơ ca, thật đáng mừng! Một luồng gió mới đang được thổi bùng lên, không cần nhắc lại tên tuổi, ta cũng thấy hiện lên những gương mặt NGƯỜI – MANG – GIÓ, dẫu phản lực có lúc làm cho tóc lệch ngôi, môi chuyển màu nhưng vẫn là gương mặt ấy: tự tin – cái tự tin của một tín đồ! Sức mạnh của GIÓ đã cuốn theo một thế hệ trẻ và làm mới những cây bút cũ, cả những người biết mình đang cũ. Đủ thấy lộ trình “thơ mới”đang thực sự bắt đầu giữa ngổn ngang những tìm tòi thử nghiệm gian khổ! Ở một bộ phận người đọc, hình như chiếc nôi cũ từng nuôi lớn mình dù tuyệt đẹp vàng son một thuở cũng đã trở nên chật chội quen thuộc quá, nhìn đâu cũng toàn thấy người thân!

Nhìn trên mặt sách báo, người đọc không chuyên nghiệp như chúng tôi thường phân làm ba loại thơ: cũ – nửa mớ i- và quá mới. Có người còn “phân biệt chủng tộc” hơn: thơ làng và thơ cung đình. Anh bạn tôi cay nghiệt: “thơ làng, thơ nửa mới là dành cho mọi người còn thơ quá mới, thơ cung đình là dành cho chính tác giả!”. Nói vậy là oan – tôi công khai bênh vực – thơ có quyền lạ hoá nhưng thiên chức của thơ không được xa lạ hoá con người. Có lẽ trong giai đoạn hiện nay, người thơ đang đi trước và người đọc bình thường đang mỏi gót theo sau. Khoảng cách ấy đang là quá xa – một khoảng cách có phần nghiệt ngã nhưng lại tất yếu của nghệ thuật (nghệ thuật hội hoạ là một ví dụ) nhất là khi các nhà cách tân vào cuộc.

Vậy đến bao giờ để người đọc và người thơ đi kịp nhau trên một con đường? Tiếng nói tri âm sẽ cất lên từ đâu trong cộng đồng?
Bình tâm mà nói, có bao giờ ta quá đà khi nhân danh “cách tân”? Đã có lần trên báo chí úm ùm lên chuyện “phản thơ”, “bất khả giải”…, ai cũng có những quan toà của riêng mình và cả những biện minh hợp pháp, trong văn chương khoảng cách giữa “chính thơ” và “phản thơ”, “khả giải” và “bất khả giải” quả là mong manh, nó phụ thuộc vào quá nhiều yếu tố, văn chương vốn nhiễu sự mà! Bình tâm nhưng hãy công tâm, liệu thơ sẽ đi đến đâu nếu nó không tìm cho mình một chỗ để làm tổ trong lòng người đọc. Thật cũ khi nói rằng:người làm thơ tâm huyết không phải chỉ một mình “khép phòng văn hì hục viết” mà luôn thấy người đọc trước mắt mình, thậm chí phải tỏ ra băn khoăn,giả định trong việc “hướng đạo” đối với người đọc – ẩn tàng. Tác giả quá vô tư, độc giả chỉ còn cách vô tâm thôi!

Tôi thật sự hứng khởi khi đọc nhiều bài thơ cách tân trên Văn Nghệ Trẻ, Sông Hương, Đất Quảng… tôi cảm đươc cái nhã thú dang tay bơi trên một dòng sông rộng, nhiều khi bất lực để mặc cho nước, bèo bọt, cả ánh măt trời chiều vỗ thẳng vào mình, để rồi mấy ngày sau đó còn khổ tâm vì một chuyến chơi sông!


Nhưng cũng có lúc tôi hết sức bi quan đành đứng từ xa nhìn dòng sông thơ tấu khúc độc hành. Cố tìm một mạch ngầm liên kết, một cấu tứ mờ, một vài câu, từ tâm đắc nhưng bất lực như đi lạc giữa một rừng chữ nghĩa hoang dã. Không thể nói tiếng tri âm, đành dối lòng dối bạn. (Không loại trừ điều này còn do năng lực cá nhân của người tiếp nhận). Dù sao cũng thật đáng buồn, tôi viết trên Đất Quảng:

“Con chữ có ma
Còn hay mất?
Hồn và thơ đánh tráo ngôn từ
Ngỡ thôi miên mà lòng vẫn thức
Dối nhau – buồn
Con chữ quần hôn.”

Có phải vì sự linh thiêng của lời cổ nhân “văn chương tối kị tuỳ nhân hậu” hay vì nhân danh cái mới mà ta tự cho mình cái quyền được tranh bước vội vàng trên lộ trình cách tân?

2/ Các nhà cách tân đã vào cuộc, vì sao các nhà lí luận-phê bình chưa lên tiếng?

Vai trò của nhà lí luận và phê bình văn học trở nên rất quan trọng trong một giai đoạn mà văn học có những bước đột phá như hiện nay. Nhìn lại đời sống văn học Việt Nam trong quá khứ, các nhà lí luận và phê bình tiền bối đã thực sự song hành cùng nhà thơ, nhà văn, tác động lẫn nhau và tác động người đọc để cùng làm nên diện mạo văn học từng thời kì.

Chúng tôi – người đọc – đang “ngóng gió đông” thấp thỏm chờ đợi những công trình nghiên cứu qui mô và khả tín kịp thời định hướng thẩm mĩ cho cảm nhận và sáng tác. Đó là thiên chức và trách nhiệm của nhà phê bình trước sự phát triển của văn học dân tộc. Có người nói đùa:lúc này các nhà lý luận-phê bình chuyên nghiệp và tự trọng chưa thể lên tiếng. Anh bạn chuyên viết phê bình và đã từng thành công của tôi cũng thú nhận:“Chưa thấy được xương sống thì thịt da nào có ý nghĩa gì”. Mà đúng thật, chưa thấy được cái xương sống của mỗi bản ngã sáng tạo thì làm sao thấy người, thấy đời, làm sao có thể vững tay phê, bình khi chính mình còn chưa tin ở mình? Đúng là khó tạo một hợp lưu khi mà các dòng chảy thơ đang ào ạt tuôn về các hướng. Phải hình thành một hệ thống tiêu chí mới chăng?

Cũng không quá bi quan, thực ra chưa có công trình lớn nhưng công việc phê bình thơ, điểm thơ cũng đã diễn ra dưới nhiều hình thức trên diễn đàn văn nghệ lâu nay.Ví như lời giới thiệu các tập thơ trên báo, lời ngỏ, lời bạt, các cuộc tranh luận thơ, chuyên mục “thơ-tìm tòi và đổi mới”của Văn Nghệ Trẻ… Chính những “đoản khúc tri âm” này cũng đã góp phần định hướng cảm nhận cho người đọc.

Nhân đây tôi muốn có một đề nghị-chỉ là tình thế thôi – khả dĩ đáp ứng phần nào nhu cầu thưởng thức thẩm mỹ cho độc giả: Trên mỗi số tạp chí địa phương và trung ương nên dành một trang mục “Diễn đàn độc giả”, để đăng trích những cảm nhận ngắn gọn, tự nhiên, không thành bài (không đòi hỏi tính hàn lâm) của các cây bút chuyên, không chuyên, của hội viên, của người đọc mọi tầng lớp, kể cả của tác giả “mở ngỏ” về tác phẩm của mình; nhất là với những tác phẩm được viết theo lối mới. Tiếng nói tri âm từ đó sẽ cất lên, dù chỉ là tri âm “từng phần” hoặc thậm chí không cùng “hệ quy chiếu”cũng đáng trân trọng biết bao! Và tác giả cũng đỡ phần nào cái cảm giác“độc hành”. Để sinh động hơn xin lấy một ví dụ:

Tôi đọc nhiều lần đoạn thơ sau trong bài mở đầu tập thơ “Liên Tưởng”của Lê Vĩnh Tài (NXB Văn nghệ TPHCM – 2006) mà vẫn không thể nào “ngộ” ra: “…chúng ta thường nhầm lẫn khi tưởng tượng cơn mưa và bữa cơm / tấm khăn trải bàn, đĩa cá thu gợi lại sương mù / phố dài ướt mưa chân dài mắt ướt / người đàn bà gợi lại lo âu / sự lừa đối gợi đêm mùa hạ / trong cơn mơ vang một tiếng kêu / như giấc ngủ ai ném lên hòn đá / tại sao những ý nghĩa / vẻ dịu dàng thiên thần của nó đáng yêu như chú bé chăn cừu trong chuyện cổ / hoài công góp lại sao trời và hoa / vẫn ám ảnh câu thơ chúng ta / như mái chèo lướt trên mặt sông / va mãi vào sóng nước …”

Và khi đọc lời bình ngắn trong bài giới thiệu thơ của Nguyễn Việt Chiến trên Văn Nghệ Trẻ (14/1/2007): “Trong đoạn thơ này, Lê Vĩnh Tài đã nhận ra vẻ đẹp nhân văn của ngôn ngữ thơ vẫn mãi mãi ám ảnh những câu thơ và những người thơ trong hành trình sáng tạo văn học của họ, mặc dù có đôi lần người cầm bút đã nhầm lẫn giữa giá trị đích thực của đổi mới thơ với những tìm tòi xa lạ với ngôn ngữ thơ”.

Tôi chỉ biết cảm ơn nhà thơ Nguyễn Việt Chiến – và chỉ cần một đoạn văn ngắn ấy thôi – với tôi, anh đã trở thành người dẫn đường và với Lê Vĩnh Tài, tôi đã là người bạn tuy vẫn còn bỡ ngỡ sơ giao. (Đó cũ ng là một chứng minh cho mối quan hệ : nhà thơ – nhà phê bình-người đọc). Dẫn ra ví dụ trên, một lần nữa tôi muốn khẳng định nguyện vọng của mình.
Nhiều đêm nghĩ quanh quẩn về sứ mệnh của thơ theo cách nói của Mai-a-côp-xki: “Người ta có thể leo qua một câu thơ hay để đến với cuộc đời cao đẹp hơn”, đầy thiện chí tôi mong mỏi “Thơ ơi, đừng là khúc độc hành!”.


Huỳnh Văn Thống

Những Mảnh Ghép Ký Ức Thời Áo Trắng

Ngày mai xa nhau rồi

Trường mến thương xa rồi

Hè về phượng buồn tiếng ve cũng buồn

Nghe trong tim sao thiết tha...”

Những ca từ và giai điệu thân thương ấy, đã được ngân vang đầy tha thiết, xúc động bởi nhiều thế hệ anh chị học trò cuối cấp trong những lần bế giảng năm học mà tôi từng được tham dự. Mới chỉ ngày hôm qua thôi, chúng tôi dường như còn thờ ơ với những giọt nước mắt chia tay bạn bè, thầy cô và mái trường của họ, mà trong lòng chỉ háo hức mong chờ kỳ nghỉ hè sắp tới để được vui chơi thật thoả thích khi một năm học đã đi qua. Bất giác, tôi choàng tỉnh sau những cơn mụ mị của tâm trí khi kỳ thi học kỳ cuối cùng trong cuộc đời học sinh của mình đã kết thúc. Trước mắt tôi không chỉ là hai bước ngoặt lớn sắp phải đối mặt sau 12 năm đèn sách, mà còn là nỗi buồn ấp ủ trong một niềm tiếc nuối vô hạn khi những ngày cuối cùng của thời học sinh đang vụt trôi qua, vô phương níu kéo. Ngày mai, chúng tôi phải rời xa trường lớp thân yêu thật rồi! Rồi ta sẽ đi đâu trong cõi miền sâu thẳm của tâm hồn để có thể quên đi khoảng trống đầy ắp sự hụt hẫng ấy?

Mái trường THPT Đông Hà thân yêu này là nơi tôi đã gắn bó suốt ba năm tưởng như dài lắm mà thực ra thật ngắnThêm ảnh ngủi của thời trung học. Nơi mà ngày ngày tôi cùng người bạn thân mất vài phút đi bộ trên quãng đường dài chừng 200m để đến với cánh cửa màu xanh dương quen thuộc của ngôi trường đã 35 tuổi, cũng là đến với cánh cửa mở ra những tri thức mới, những chân trời mới. Con đường đến trường với ngã tư đông người buổi ban sáng; với con dốc uốn lượn hắt nắng vàng ngày hạ hay chút lạnh phả vào mặt trong những buổi sương sớm ngày đông; với những dòng nước nhỏ tinh nghịch trong một buổi chiều mưa cùng nhau đi học thể dục; với mùi hương ngào ngạt toả ra từ những bông hoa sữa trắng muốt ngày thu; những mái tóc đen dài óng mượt sánh bước cùng tà áo dài nữ sinh thướt tha; tất cả chúng luôn được in đậm trong trí nhớ và gắn liền với hình ảnh ngôi trường cấp III đẹp đẽ. Hiện ra trước mắt tôi là một dãy nhà ba tầng mang chút cổ kính và một sân trường đầy bóng mát của cây xanh với những đường chỉ cỏ thẳng tắp xếp thành nhiều ô vuông, nhìn từ trên cao xuống như một mặt màu xanh lá của khối rubic khổng lồ. Sân sau trường cũng là những ô cỏ hình bông hoa tuyệt đẹp và dãy nhà bốn tầng được xây lên cách đây không lâu, vẫn mới tinh và rất khang trang, hiện đại. Trường yêu với một dãy nhà ba tầng khác cùng những dãy nhà trệt xinh xinh, những hàng ghế đá đủ màu sắc rải rác khắp sân trường dưới những tán cây râm mát, cùng một hội trường lớn tách biệt và một sân thể dục hoành tráng, đã để lại trong tôi cùng nhiều thế hệ học sinh một niềm vui thích xen lẫn niềm tự hào về mái trường giàu truyền thống mà mình đã được học tập và rèn luyện.

Mái trường này, trong trái tim tôi và nhiều người khác, như chính ngôi nhà thứ hai của mình vậy. Nhà thì không phải lúc nào cũng vui vẻ và bình yên, nhưng niềm vui và sự ấm áp luôn lớn hơn gấp nhiều lần so với những nỗi buồn và sự cô đơn. Không phải lúc nào ta cũng muốn trở về nhà, cũng như là đến trường vậy, nhưng đó chỉ là những lúc mà tâm trạng ta bất ổn với những rắc rối thường tình của tuổi mới lớn, và rồi mọi thứ sẽ trôi qua và ta lại thèm gắn bó với “mái nhà” của mình. Mái nhà thứ hai này của tôi là nơi những người bạn như những người anh chị em trong một đại gia đình với những tính cách, sở thích và khả năng khác nhau, nhưng hầu như đều yêu thương và giúp đỡ nhau cùng tiến bộ. Mái nhà này còn là nơi có hơn 80 người cha, người mẹ hết lòng dạy dỗ, bảo ban cho gần 2000 đứa con đôi khi rất nghịch ngợm, ương bướng và vô tâm của mình. Họ luôn mong muốn những điều tốt đẹp nhất cho những đứa con, bất kể chúng có phạm phải sai lầm hay lạc lối trên đường đời. Họ luôn dang rộng vòng tay che chở và sẵn sàng hy sinh nhiều niềm hạnh phúc cá nhân cho một sự thành công lớn với nỗ lực của nhiều con người. Có những người cha, người mẹ đã không ngại khó khăn để thức suốt đêm chấm bài kịp cho những mong ngóng của những đứa con. Người khác lại không quản mệt nhọc để hoàn thành bài học cho con mình dù đã phải đứng lớp suốt 5 tiết buổi sáng mà vẫn tổ chức dạy bù vào tiết 1, tiết 2, không cần nghỉ ngơi. Có người cha đã gần 60 tuổi đời vẫn không giảm nhiệt huyết trong từng bài giảng, người cha khác chúng tôi lại chưa từng được truyền dạy bất cứ một bài học lý thuyết nào nhưng vẫn rất cảm phục vì tài năng và sự tâm lý với con mình, có người mẹ cổ họng dù ngứa rát vẫn cố nói to để con mình nghe cho rõ, cho hiểu bài học. Dẫu đôi khi giữa những người cha, người mẹ và những đứa con có rất nhiều bất đồng trong quan điểm, dẫu vài lần người cha hơi cứng nhắc, người mẹ hơi nghiêm khắc, nhưng rồi chúng tôi vẫn tìm được tiếng nói chung, hoà hợp với nhau. Để rồi khi đạt được thành quả, tất cả đều vui sướng và hạnh phúc vì công sức nhỏ mà mình đã góp vào thành công chung, thật đáng trân trọng. Một “đại gia đình” dù không hoàn hảo nhưng thật tuyệt vời như thế, chắc hẳn sẽ khiến những cô cậu học trò chúng tôi cảm thấy tiếc nuối khi ngày chia tay đang đến gần, và sẽ rất nhớ nhung nếu sau này bước đi bằng chính đôi chân của mình trên con đường đời…

Tôi từng được cô giáo dạy Văn của mình đúc rút cho một kỹ năng sống và thấy nó quả thật đúng đối với những ai sống thiên về lý trí: “Hãy sống bằng kinh nghiệm của người khác”. Thú thật, với một cô học trò sống thiên về tình cảm như tôi thì chính những trải nghiệm mà bản thân đã trải qua mới có thể khiến tôi nhận ra mình đã sai lầm như thế nào và bỏ lỡ những gì trong cuộc đời. Quãng đời học sinh cấp III của tôi dưới mái trường này cũng không là ngoại lệ, và đến giờ tôi mới thật sự thấm thía và luyến tiếc, thì chẳng còn cơ hội nào nữa để làm lại từ đầu. Bởi đã từng có lần tôi làm thầy cô thất vọng vì không chịu cố gắng học tập, không tích cực tham gia phong trào chung mà chỉ mang tính đối phó, làm bạn bè phiền muộn vì sự ích kỷ của mình, hay bỏ lỡ những giây phút vui chơi tập thể, những kỷ niệm cùng với tập thể lớp mà mình yêu quý. Thế mà tôi vẫn không thể nhận ra mình đã làm tổn thương người khác như thế nào, cho đến tận bây giờ.


Nhưng tự dằn vặt bản thân như thế này sẽ chẳng mang lại điều gì cả, tôi tự nhủ. Tôi vẫn còn một cơ hội để làm điều gì đó có ý nghĩa cho ngôi trường mà mình rất yêu quý này, phải không? Chính vì thế, tôi đã viết nên những dòng này, như một lời tri ân chân thành đến tất cả những người mà tôi quý mến và kính trọng. Đó là Ban giám hiệu nhà trường, những người cô, người thầy đã dìu dắt tập thể lớp tôi suốt ba năm qua, những thầy cô đã đứng lớp giảng dạy cho chúng tôi, và cả những thầy cô mà tôi chưa từng một lần được nghe giảng, đặc biệt là thầy phụ trách văn phòng trường tôi. Những người thầy, người cô ấy, có lẽ tôi vẫn sẽ nhớ mãi. Tôi không chắc sau này có đủ khả năng để thành công trong sự nghiệp và trở lại trường đóng góp chút gì đó cho nơi đã dưỡng dục mình nên người. Nhưng có một điều chắc chắn là những ký ức đẹp đẽ, đáng nhớ về trường yêu, tôi sẽ mang theo bên mình, như một cái túi chứa đựng nhiều niềm vui, để mỗi khi cảm thấy cô đơn, buồn bã, tôi sẽ mở chiếc túi thần kỳ ấy ra, và những chuỗi ký ức đáng nhớ ấy của thời cấp III lần lượt hiện lên trước cửa sổ tâm hồn, rồi khiến tôi mỉm cười, dù chỉ là với chính bản thân mình!

“Nào bạn ơi đến đây, cùng hát vang

Cho những ngày buồn tan biến hết

Cho thầy cô, cho mái trường

Cho bạn, và cho tôi..”

Vẫn là những câu hát trong ca khúc “Kỷ niệm mái trường”, bất chợt lại ngân vang trong tôi. Có thể, ngày mai, trong lễ tri ân và bế giảng cuối cùng của đời học sinh, tôi sẽ dũng cảm một lần bước lên sân khấu lớn và hát tặng thầy cô, bè bạn những giai điệu đầy ý nghĩa này!

.

Thảo Vi.

12B1 THPT Đông Hà, Quảng Trị

Vô Cảm?

Sáng nay trên đường đi làm, tôi gặp một người mẹ trẻ đang dẫn bộ chiếc xe tay ga. Trên xe có đứa bé chừng 5 tuổi đứng ở bửng phía trước xe, chắc đang trên đường đến trường mẫu giáo. Người mẹ mặc váy công sở, thấy đã thấm mệt.

Tôi nghĩ nhanh trong đầu xem vì sao xe chết máy: hết xăng, mất điện? Liệu có đạp cho xe nổ thay vì đề được không? Nhưng hôm trước té xe, tay mình vẫn còn đau, và chân mình cũng không đạp hộ cho xe nổ máy nổi. Và nếu dừng lại, mình sẽ đến cơ quan trễ.

Trong lúc suy nghĩ, xe tôi vẫn tiến về phía trước, bỏ lại người mẹ và chiếc xe kia phía sau ngày càng xa. Tôi lại nghĩ nhanh sao mình không quay lại hỏi một câu, nhưng con đường tôi đang đi lại là đường một chiều.

Cuối cùng, tôi đã bỏ xa người mẹ, đứa bé và chiếc xe để hòa vào dòng người hối hả và vô cảm. Không dám quay lại nhìn, nhưng tôi hy vọng đã có người tốt bụng hơn, dứt khoát hơn, tích cực hơn tôi hiện ra phía sau để giúp đỡ hoặc ít ra cũng chia sẻ được một lời với hai mẹ con. Và cũng tin rằng, dù gì thì cuối cùng người phụ nữ ấy cũng sẽ hoàn thành xuất sắc việc đưa con đến trường và đến cơ quan trong sáng nay.

Nếu gặp tình huống này một lần nữa, chắc chắn tôi sẽ xứ lý khác. Tuy nhiên, tôi vẫn mong được nghe lời chia sẻ của người phụ nữ phải đẩy xe và con trong tình huống này.

Mọi người hãy vào vai được không ạ?

.

Nguyễn Phương Thảo

Blog Chuyên Anh

Nurturing Language Talents

%d người thích bài này: