Khi mới bắt đầu tập thiền quán tâm từ, metta, có một kinh nghiệm đã giúp tôi thấy rõ được tâm thức mình, cũng như cách tôi liên hệ với những người chung quanh. Lúc ấy, tôi được hướng dẫn thực tập ban rải tình thương của mình đến một người dưng (a neutral person), mặc dù lúc đó tôi cũng không hiểu rõ “người dưng” là như thế nào. Thầy của tôi, ngài Anagarika Munindra, chỉ nói rằng tôi hãy chọn một người nào gần đây, người mà tôi không thương cũng không ghét.
Kodo Sawaki (1880-1965) hay “Kodo-Kẻ không nhà”, là một trong những vị thiền sư phái Tào Động (Nhật Bản) có ảnh hưởng nhất của thế kỷ XX.
Là trẻ mồ côi, 16 tuổi xuất gia, sau bị gọi nhập ngũ, chiến tranh kết thúc Sawaki quay về tiếp tục tu học thiền. Kodo Sawaki lập hạnh không trụ mà đi khắp nơi để dạy thiền.
Thiền sư Sawaki luôn nhấn mạnh đến tầm quan trọng của việc hành thiền hơn là học kinh sách hay tham công án. Một số lời khuyên dạy của Kodo Sawaki được môn sinh tập hợp thành “Gửi bạn”, xin chia sẻ đến bạn đọc suy ngẫm.
1. Gửi người bắt đầu biết suy gẫm về cuộc đời
Ở một số nơi tại Mãn Châu, các cỗ xe thường do các chú chó to lớn kéo. Bác xà ích treo một miếng thịt trước mũi chó, và chú chó chạy như điên theo miếng thịt. Nhưng dĩ nhiên là chú không bao giờ với tới. Chú chỉ được vứt cho miếng thịt khi cỗ xe đã về tới đích. Rồi chỉ trong một cái ngốn, chú nuốt chửng miếng thịt xuống cổ họng.
Vậy mà trời đã vào thu. Ở miền rừng núi này trời bắt đầu thu vào đầu tháng chín, khi không gian chợt se lạnh vào mỗi sáng bước ra ngoài. Đáng lẽ tôi đã không hề hay biết, nếu sáng nay không chợt nhìn thấy những chiếc lá đỏ ối nằm rải rác trên con đường trải đá sỏi.
Tôi ngước lên nhìn rừng bắt đầu chuyển thu. Tôi đi ngang qua một cây, ngày hôm qua chỉ mới có một vài chiếc lá đổi màu, vậy mà sáng nay đã có nhiều chùm lá nhuộm đỏ. Mới đầu tháng chín, trời đã vào thu. Tiếp tục đọc →
Buổi tối qua khi tôi ra về trời cũng đã thật khuya! Bước ra ngoài, tôi thấy trăng vằng vặc sáng trên đầu. Con đường nhỏ tôi đi có ánh trăng đổ dài bóng cây. Không gian trời thu trong và mát lạnh. Những nốt nhạc lời thơ vẫn còn nhẹ rơi. Nhạc và thơ bao giờ cũng mang lại cho cuộc đời những niềm vui nho nhỏ bạn hả!
Sáng nay dậy sớm, pha một tách cà phê, ra ngồi sau nhà. Những giọt sương vẫn còn đọng trên lá cỏ. Không khí lạnh buổi sáng làm tách cà phê sáng nay của tôi thấy ấm hơn. Sáng nay, tôi muốn chia sẻ với bạn về vấn đề hạnh phúc.
Khi chung quanh là những khó khăn
Vào tuổi bây giờ, tôi nghĩ, hạnh phúc không còn có thể nằm trên mây hoặc là ở một nơi xa xôi nào đó. Hạnh phúc, tôi nghĩ, là một buổi sáng ngồi yên, là được nhìn một tia nắng lung linh vướng trong hạt sương, là pha một tách cà phê thơm uống cùng lá và mây. Là cứ mở lòng ra với những gì đang có mặt trong cuộc sống mình.
Tôi học được rằng, chánh niệm và tỉnh giác là hai yếu tố khác nhau về tính chất và tác dụng, nhưng chúng lại bổ túc và hầu như luôn đi đôi với nhau như hai mặt của bàn tay. Chánh niệm thuộc về yếu tố của định, và tỉnh giác thuộc về tuệ. Chánh niệm giữ tâm trọn vẹn trên đối tượng, và tỉnh giác soi sáng đối tượng.
Ví dụ như ta cầm một cây đèn pin để soi chiếu một vật gì. Giữ cho yên và chiếu đúng trên đối tượng là chánh niệm, soi sáng để thấy rõ đối tượng là tỉnh giác. Nếu ta không giữ đủ yên ta sẽ không thấy được vật nào, và nếu đèn không đủ sáng thì cũng không thể thấy rõ được. Nhưng nếu ta lại cố giữ cho thật chặt, bất động, thì ta lại sẽ đánh mất đi một thực tại lúc nào cũng di động và chuyển biến.
Ở đây chúng ta thường dùng chữ thực tập (practice) để diễn tả một nỗ lực rèn luyện, phát triển chánh niệm. Nhưng ta không nên hiểu theo nghĩa thông thường như đó là một sự diễn tập (rehearsal), được lặp đi lặp lại nhiều lần, để nó được thuần thục hơn, tốt hơn, hoặc có nhiều thành quả hơn.
Chánh niệm có nghĩa là ta thực sự sống trọn vẹn trong giây phút hiện tại. Ở đây không có một sự thể hiện hay biểu diễn nào hết. Chỉ có chính giây phút này mà thôi. Chúng ta cũng không hề cố gắng cải thiện tình trạng, hoặc để đi về đâu cả.
Ta không cần chạy theo một tuệ giác hoặc một cảnh giới đặc biệt nào khác. Ta cũng không ép buộc mình phải trở nên vô tư, tĩnh lặng hoặc là được thanh thản. Và chắc chắn chúng ta cũng không hề đề cao một thái độ vị kỹ, hoặc chỉ biết lo nghĩ về mình. Tiếp tục đọc →
Có lần bà Sylvia Boorstein, tác giả của quyển “Dễ hơn là bạn nghĩ: con đường hạnh phúc theo lời Phật dạy” được mời vào lớp học của đứa cháu ngoại để nói về đạo Phật. Lớp của các em cũng mới vừa được học xong về xứ Ấn độ. Sau khi bà Sylvia trình bày, có một em trai đưa tay lên hỏi,
“Cháu có nghe nói là những người tập thiền giỏi, họ có thể biết trước được tương lai của mình, có phải vậy không?”
Bà đáp, “Có thể, nhưng đó không phải là mục đích của thiền!”Tiếp tục đọc →
“Tâm người đời luôn động, suy nghĩ muôn nghìn thứ; nhưng trong đó, phần nhiều là những suy nghĩ sẽ làm họ phải khổ phải buồn, có quá ít suy nghĩ có thể giúp họ sống an vui”.(1)
Tạo hóa cho con người trái tim có hai ngăn, một để nghĩ cho mình và một để nghĩ cho người, nhưng chúng ta lại không làm như thế, chúng ta giành gần hết trái tim chỉ để nghĩ cho bản thân mình, nhưng trong đó, nhưng suy nghĩ thực sự có thể giúp chúng ta sống an vui luôn quá ít.
Tôi muốn nghe tiếng suối chảy trong một ngôi rừng mùa thu. Tôi muốn ngồi trong một căn phòng vắng nghe trời chuyển mưa. Tôi muốn đi trên con đường dốc nhỏ vào một sáng sương mù.
Tôi muốn nhìn ánh trăng nằm trong một hạt sương đọng trên lá. Tôi muốn đứng yên lắng nghe sự thinh lặng của không gian trong một ngày mưa tuyết. Tôi muốn lên núi xem mặt trời đỏ bình minh nhuộm hồng trời đất.Tiếp tục đọc →
“Người tựa vào tâm từ bi để sống sẽ luôn thương tất cả sự sống chung quanh như thương một người thân của mình, kẻ đó luôn có được trong lòng niềm vui bình yên tĩnh lặng”.(1)
Khi trong tâm có từ bi, chúng ta đang được bảo vệ đến hai lần trước những nghịch cảnh nghịch duyên từ cuộc sống.
Từ bi với bản thân là lần bảo vệ thứ nhất, như khoác lên mình một tấm áo giáp; và từ bi với cuộc sống là lần bảo vệ thứ hai, bằng cách triệt tiêu hết sức mạnh của những chướng duyên.
Ngày xưa, người ta thường có quan niệm cho rằng một bức tranh đẹp là một bức tranh vẽ thật chính xác đối tượng của mình. Một nhà hoạ sĩ tài giỏi là người vẽ lại được cảnh vật hoặc người giống y như thật.
Vào năm 1872 một họa sĩ người Pháp tên là Claude Monet, ông ta vẽ một bức tranh về cảnh mặt trời mọc ở vịnh Le Havre. Bức tranh này bị những nhà phê bình đương thời chỉ trích là nét vẽ thật luộm thuộm, mặt trời thì đỏ chói lại mờ ảo, bầu trời lại lù mù sương khói, và những bóng đen của các chiếc tàu trên biển thì quá tệ. Họ nói, tranh ông Monet vẽ không giống gì với lại cảnh bình minh ở vịnh Le Havre, và đặt tên cho ông là một nhà vẽ ấn tượng, impressionist. Tiếp tục đọc →
Thiền sư Đạo Nguyên lúc còn đang đi tầm đạo ở Trung Hoa, một hôm ghé qua một ngôi chùa. Lúc ấy vào giữa mùa hè, trời nóng như trong một lò lửa. Ông gặp một vị sư già đang lom khom làm việc ngoài sân, phơi nấm dưới ánh nắng như thiêu đốt. Thấy vậy, Đạo Nguyên đến gần hỏi: “Tại sao thầy lại làm việc chi cho cực khổ vậy? Thầy đã lớn tuổi rồi, chắc cũng là một bậc tôn túc trong chùa, sao thầy không nhờ các chú sa di trẻ làm giúp thầy. Thầy đâu cần phải làm việc đâu? Vả lại, trời hôm nay nóng như thế này, sao thầy không dời lại một ngày khác?”
Mark Epstein, là một nhà phân tâm học, psychotherapist, và cũng là tác giả của quyển Thoughts without a Thinker có chia sẻ một kinh nghiệm tu học của ông như sau.
Trong hơn 30 năm qua, mỗi năm ông đều cố gắng đi tham dự một khóa tu nhiều ngày. Và ông cũng giữ một quyển nhật ký, ghi lại những trải nghiệm và khám phá của mình có được trong mỗi khóa tu. Gần đây, ông có dịp đọc lại những gì mình đã ghi chép trong quyển nhật ký ấy.
Ông ngạc nhiên và khám phá ra một điều này, là tuy mỗi khóa tu ông ghi lại những trải nghiệm khác nhau, nhưng thật ra chúng chỉ trình bày một sự thật duy nhất mà thôi, đó là “Những gì ta kinh nghiệm, hoàn cảnh nào ta đối diện, chúng không là quan trọng. Nhưng điều quan trọng là cách ta phản ứng, và thái độ của ta tiếp nhận chúng như thế nào.” Tiếp tục đọc →
– Ngồi thư giản và buông xả, để cho tâm rỗng lặng và thoải mái tự nhiên. Không cần phải cố ép hay gò bó thân tâm theo một phương pháp nhất định nào. Tất cả những gì xảy ra đều đang khởi lên trong điều kiện tự nhiên của chúng, và đang là hoàn hảo.
– Buông xả và có mặt với những gì đang có mặt trong thân tâm. Ta không cần phải tạo dựng lên một đối tượng đặc biệt nào trong tâm để quan sát hay theo dõi. Nếu như ta cố ý chọn lựa một đối tượng nào nhất định, thì đối tượng đó không còn là tự nhiên nữa. Đối tượng của thiền là những gì tự nhiên, đang là, trôi chảy và linh động.
“Đừng nói những lời, đừng làm những việc để người phải tổn thương. Đừng mãi nuôi dưỡng oán hận trong lòng.
Kẻ làm người khác phải nhận lấy tổn thương rất đáng hổ thẹn. Kẻ mãi nuôi dưỡng oán hận trong lòng càng đáng hổ thẹn hơn”.()
Đáng hổ thẹn cho người chỉ biết xem thường kẻ khác. Nhưng đáng phải hổ thẹn hơn là người mãi tin mình cũng tầm thường như người ta nói.
“Người tâm đã tĩnh lặng thấy “tài, sắc, danh…” như chất độc, vì chúng dễ dàng giết chết những điều thiện trong lòng; nhưng với người chưa làm chủ được tâm, họ luôn xem những thứ đó như những gì tuyệt diệu nhất thế gian”.(1)
“Tài, sắc, danh…” trong kinh gọi là “ngũ dục”, năm thú vui trần tục: tài sản, nhan sắc, danh vọng, ăn uống, ngủ nghỉ. Tiếp tục đọc →
Khi trung tâm Insight Meditation Society mới mở, một trong những người hướng dẫn, Steve Armstrong, có làm một tờ quảng cáo nhỏ đùa chơi, trong ấy anh có đăng một câu châm ngôn thật tuyệt: “Thà ngồi yên không làm gì hết, còn hơn là hoang phí thời giờ của bạn.” Mặc dù câu châm ngôn của anh đã không được đăng trên tờ quảng cáo thật sự, nhưng nó đã diễn đạt rất chính xác về mục đích của thiền tập.
Bước vào thế kỷ XXI, nhân loại bước vào một kỷ nguyên đầy biến động với đà phát triển như vũ bão của khoa học kỹ thuật và công nghệ hiện đại. Nhìn một cách tổng thể chúng ta thấy rằng trình độ dân trí và đời sống vật chất được nâng cao đáng kể, nhưng đời sống tinh thần có nhiều lúc lại rơi vào khủng hoảng.
Thực hành thiền giúp người hành trì đạt được sự quân bình tâm và thanh lọc tâm – Ảnh minh họa
Bài viết này đề cập đến vấn đề khủng hoảng tinh thần trong đời sống xã hội hiện nay và nêu ra phương pháp khắc phục thông qua việc vận dụng thiền quán vào đời sống thường nhật, giúp cho người thực hành thiền quán
Nơi đây… Tháng 7… Mùa hoa dại đã về đến dưới hiên. Mặc cho nắng tháng 4, Mặc cho mưa tháng 5,
Mặc cho gió tháng 6,
Mặc cho lòng người lạnh nhạt hờ hững quanh năm,
Mùa hoa dại vẫn về đúng hẹn. Để tháng 7, mỗi sớm mai, mở cửa sổ, lại thấy dưới hiên những đóa hoa dại tím nhạt bình thản.
Có một bài thơ của Xuân Diệu có lẽ ít người biết đến, nói về hạnh phúc. Hạnh phúc được diễn tả bằng một cô gái trẻ: Cô Hạnh Phúc (Mademoiselle Bonheur). Những câu cuối của bài thơ như thế này:
“Cô Hạnh Phúc, gớm, đợi chờ cô mãi”
Chữ gớm ở đây có nghĩa là: Trời đất ơi, mèn đét ơi, ối giời ơi, dữ không, tức là chờ hoài chờ mãi.
“Xây dựng cô sứt mẻ những bàn tay”
Xuân Diệu là nhà thơ của tình yêu. Bao nhiêu bàn tay đã sứt mẻ vì cố công xây dựng hạnh phúc!
“Trật bả vai, rỏ máu những lông mày”
Đi kiếm hạnh phúc gian nan, bị thương tích rất nhiều. Tiếp tục đọc →
Khoảng cách lớn nhất trên thế gian không phải là vạn dặm xa xôi, mà là dù hai người có đứng trước mặt nhau, trái tim họ cũng vô cùng lạnh nhạt. Một khi trái tim trở nên lãnh đạm thì mọi khoảng cách giữa con người với nhau sẽ tự khắc xa vời vợi, Nhưng chỉ cần ta có trái tim yêu thương, tự khắc khoảng cách giữa người với ta sẽ được rút ngắn lại, thậm chí không còn chút khoảng cách nào.
Khoảng cách giữa người với người không phải là khoảng cách địa lý mà chính là khoảng cách trái tim. Tiếp tục đọc →
Một vị vua có duy nhất một người con trai là một hoàng tử dũng cảm, tài giỏi, và thông minh. Nhà vua gửi anh ta tới gặp người Thầy là một Thiền sư để hoàng tử được mở mang nhận thức.
– Xin hãy khai sáng cho con đường của con, hoàng tử van nài.
Văn hào Leo Tolstoy có kể một câu truyện về hai người bạn già. Efim là một người giàu có và có một đời sống rất gương mẫu, ông không uống rượu, không bao giờ nói dối và được mọi người trong làng kính trọng. Và ngược lại, bạn của ông, Elisha thì có một cuộc sống tạm đủ, thỉnh thoảng ông uống rượu, và hay ưa thích ca hát, vui chơi với bạn bè.
Một ngày nọ, hai người bạn rủ nhau cùng đi hành hương về nơi Thánh địa. Trên đường đi, Elisha mệt và khát nước nên bảo người bạn của mình hãy cứ đi trước, ông muốn ghé vào ngôi làng gần đó để xin nước uống, rồi sẽ bắt kịp theo sau. Tiếp tục đọc →
Mở đầu tác phẩm Ana Karenin, văn hào Leo Tolstoy viết, “Những gia đình hạnh phúc thì đều giống như nhau, nhưng trong mỗi gia đình khổ đau thì không có khổ đau nào giống với khổ đau nào hết.” Có lẽ trong cuộc đời, ông đã chứng kiến quá nhiều tình cảnh khổ đau mà hạnh phúc thì chừng như quá giới hạn. Nhưng tôi cũng muốn viết lại là, “Trong cuộc đời này những khổ đau có thể giống như nhau, nhưng mỗi hạnh phúc đều rất đặc biệt và kỳ diệu theo một lối riêng của nó.”
Trời thu đẹp là nhờ có trăm ngàn chiếc lá biết phơi bày màu sắc chân thật của chúng. Những màu sắc rực rỡ ấy lúc nào cũng có mặt, chứ không phải chỉ chờ đến mùa thu, nhưng chỉ vì chúng bị che khuất bởi màu xanh của mùa hè mà thôi. Những ngày lộng gió, màu sắc bay trong không trung, màu sắc trải đường đi, màu sắc phủ mặt hồ, màu sắc trôi trong đáy tách trà thơm. Tiếp tục đọc →
Tôi đọc bài ni – Nhớ ra cần buông bỏ Dù giáo dục nước nhà bị chê như tương ớt Chin Su đó Dẫu dán mark gì, thôi kệ, bình tâm Tự tại giữa ngổn ngang, cuộc thế lắm bất nhân Ai bất thiện, giữ lòng mình chớ nhiễm Trên cây đời lá xanh um còn đó Dưới hồ kia, súng hồng – trắng kề nhau Tâm nào an được ngoài đâu? Tư duy tích cực, khổ đau loại dần
Trong bài kinh Hạnh Phúc có bài kệ nói về một trong những phúc lành cao thượng nhất là,
Khi xúc chạm việc đời Tâm không động, không sầu, Tự tại và vô nhiễm, Là phúc lành cao thượng.
Việc đời thì bao giờ cũng sẽ có những biến đổi, đến đi, còn mất, không bao giờ ngừng nghỉ, mà chúng chắc chắn sẽ mang lại cho ta nhiều xao động. Có thể nào chúng ta lại tiếp xúc với một cuộc sống đầy những đổi thay và bất toàn này, mà tâm mình vẫn “không động, không sầu” được không bạn hả? Tiếp tục đọc →
Đây là bài Pháp ngắn được ghi lại từ buổi trao đổi giữa Ngài Sayadaw U. Jotika với các học trò của Ngài ở Rừng thiền Sóc Sơn và được dịch Việt cũng như ghi âm lại bởi SMP để tiện việc chia sẻ đến mọi người. Nguồn bài được cung cấp bởi Rừng thiền Sóc Sơn.
Ảnh từ nguồn Sư Tâm Pháp
Công nghệ rất hữu ích. Chúng ta trở nên năng suất hơn, bởi vì chúng ta phát minh ra công nghệ. Do đó, con người càng hứng thú hơn với các công cụ và công nghệ. Chúng giúp cuộc sống được dễ dàng hơn theo một phương cách nào đó. Điện thoại là một công nghệ rất hữu ích. Và ngày nay, người ta dành nhiều thời gian hơn để xem tivi, hay xem một cái gì đó trên điện thoại. Bởi vì điều đó làm cho họ thích thú. Tiếp tục đọc →
“Kẻ thù lớn nhất của mỗi người là suy nghĩ bất thiện trong lòng họ. Người bạn lớn nhất của mỗi người là suy nghĩ thiện, cũng chính trong lòng họ”.(1)
Kẻ thù lớn nhất ở đó, người bạn lớn nhất cũng ở đó, ngay trong lòng mình, cho mỗi người ai cũng có cơ hội để chọn lựa, bạn hoặc thù, để đi chung với mình mỗi ngày.
Khi suy nghĩ bất thiện còn tồn tại trong lòng, đôi chân còn vội vã đua tranh, đôi tay còn cố giữ lại những điều hư ảo, miệng còn muốn nói những lời tổn thương, mắt còn muốn thấy lỗi lầm của người, tai còn thích lắng nghe những ồn ào thị phi. Tiếp tục đọc →
Khi bạn đánh mất liên lạc với sự im lắng ở nội tâm, bạn sẽ đánh mất liên lạc với chính mình. Khi bạn đánh mất liên lạc với chính mình, bạn sẽ tự đánh mất mình trong thế giới của hình tướng. Mọi thứ hữu hình là tất cả những gì trong đời sống, trong vũ trụ mà ta có thể sờ mó, nhìn thấy, cảm nhận hoặc có thể tạo thành một khái niệm ở trong ta. Tất cả đều là biểu hiện của Tâm. Nói một cách khác, Tâm là nơi muôn vật, mọi thứ hữu hình được tạo ra, được sinh ra. Tiếp tục đọc →