lược dịch từ tác phẩm Zen and Japanese Culture
(Thiền và văn hóa Nhật Bản) của Daisetz T. Suzuki,
Nhà xuất bản Princeton University , Princeton, N.J., 1970.
Thời hiện đại đã tạo ra một bề mặt thực tế trần trụi, một “thực tại khách quan” có khuynh hướng làm khô héo tâm hồn chúng ta. Nơi nào không có sự nhạy cảm mong manh, không còn niềm duy cảm chủ quan, nơi đó thơ ca sẽ bị lụi tàn; nơi nào sa mạc mở ra mênh mông, nơi đó cây cỏ xanh tươi không thể nảy chồi. Trong thời đại Basho, cuộc sống con người chưa bị đẩy vào sự tầm thường và quẫn bách (Daisetz T.Suzuki)
(…) Dường như đặc tính nổi bật nhất của người Nhật là lòng ưu ái nâng niu những sinh vật nhỏ bé trong tự nhiên. Thay cho những ý tưởng vĩ đại hoặc suy tư trừu tượng, họ thích trồng hoa cúc, hoa triêu nhan và hân hoan ngắm nhìn những bông hoa bé nhỏ nở ra xinh xắn trong những ngày mưa. Nếu tôi kể tiếp ra đây hình ảnh các sinh vật bé nhỏ xuất hiện tràn ngập trong thể thơ haiku với 17 âm tiết đáng yêu, rất có thể bạn sẽ hoài nghi tầm vóc thơ ca chân chính của các hình ảnh ấy. Tôi vẫn tự hỏi: trí tuệ phương Tây đã bao giờ bị xúc động trước những sự vật tầm thường đến thế này không:

(1) Một con ếch xanh trên lá chuối:
Amagaeru Lá chuối xanh trôi
Bashoo ni norite Một con ếch nhỏ
Sayogi keri Run run đang ngồi
Dù Kikaku (1660 – 1707), tác giả của bài thơ, thực lòng muốn vẽ một bức tranh tưởng tượng nào đó, tôi vẫn nhận thấy rõ trước mắt mình một chiếc lá chuối xanh mướt, sống động xòe rộng khi con ếch xanh bắt đầu nhảy nhót quanh vườn. Mùa xuân, con ếch rời khỏi nơi ẩn náu của mình sau cơn mưa rào, dù nó rất thích đẫm mình trong mưa. Giờ đây, con ếch nhận ra chiếc lá đang run run dưới sức nặng cơ thể bé bỏng của nó. Chiếc lá đủ rộng rãi và cứng cáp để nâng con ếch xanh khi nó ngồi gần cuống lá. Thế rồi cái dáng ngồi, cái run rẩy, cái xao động… ấy đã kết thành một sự chuyển động trong khu vườn mùa xuân tĩnh lặng, nơi phản chiếu biết bao màu xanh của vạn vật, nơi màu xanh của con ếch nhỏ và màu xanh của chiếc lá chuối bỗng hiện lên sắc nét.
(2) Một con khỉ ướt mưa:
Hatsu shigure Mưa đông giăng đầy trời
Saru mo komino wo Chú khỉ con đơn độc
Hoshige nari Cũng mong chiếc áo tơi
(Đoàn Lê Giang dịch)
Trong chuyến đi dài qua những con đường mòn lên núi, Basho đã nhìn thấy một chú khỉ nhỏ ngồi trên một cành cây ướt đẫm trong mưa lạnh. Cảnh tượng đáng thương ấy đã làm rung động trái tim mong manh của Basho. Ở đây có một điều gì đó còn sâu hơn cảm xúc. Một nhà thơ cô độc – sự cô độc rất tương hợp với hình ảnh con khỉ ao ước một chiếc áo che mưa – đang nhận ra bước chân mùa đông thê lương ảm đạm đến gần bằng những cơn mưa ướt át. Theo triết học Trung Quốc, mùa đông tượng trưng cho giới hạn của âm tính, khi mà toàn thể vũ trụ bị tước mất những đường nét sinh động bên ngoài, giữ lại trong nó những hoạt tính âm thầm kiến tạo một mùa mới. Người lữ hành cô đơn Basho cảm nhận nỗi cô tịch của chính mình trong bước đi của mùa đông. Đó là cuộc sống của những khát khao vĩnh cửu.
(3) “Chủ ngữ mờ nhạt tuyệt đối” hay kẻ trồng hoa vô danh:
Kusau mura ya Giữa đồng cỏ xanh
Na mo shiranu một bông hoa dại
Shiroku saku nở ra trắng ngần

Bài thơ do Shiki (1869 – 1902) sáng tác, một trong những nhà thơ haiku hiện đại nhất. Trong khi Shiki không nhắm mắt đi theo con đường của Basho và thường chỉ trích rằng Basho quá chủ quan, thì bài thơ về một bông hoa trắng của ông có cái gì đó… rất giống bài haiku của Basho về bông hoa dại nazuna; tuy Shiki không viết “nhìn kỹ”(yoku mireba) như Basho, theo phong cách “chủ quan” mà người ta vẫn thường nói về Basho. Khi những từ ngữ này tương ứng với tinh thần “hoa trên tường nứt” hoặc “đóa huệ trắng giữa cánh đồng” trong Kinh Thánh, ta nhận ra câu thơ của Shiki âm vang nỗi niềm đa cảm Basho. “Na mo shiranu” nghĩa là “không ai biết tên”, “vô danh”, “vô nghĩa”, “bé mọn” và “sẵn sàng trở thành thức ăn trong lò ngày mai”. Đây là một tính ngữ mà chúng ta dành cho vạn vật đang tồn tại theo cái lý riêng của nó, với ý nghĩa rằng chúng không là gì cả, không có bất kỳ giá trị nào; cho đến khi chúng được kết nối vào cái toàn thể của sự sống hiện tại bằng ân huệ thần thánh, như lời các tín đồ Cơ-đốc đã nói. Basho đã chiêm ngưỡng hoa nazuna bên hàng dậu dưới ánh sáng này, và tôi muốn nhìn thấy Shiki cũng thưởng thức “sự bung nở của đóa hoa trắng giữa đồng cỏ” dưới ánh sáng như thế.
(4) Con mực trong bẫy:
Takotsubo ni con mực trong bẫy
hakanaki yume wo nằm mộng phút giây
natsu no tsuki mùa hạ trăng đầy
Tôi thấy ngư dân thả ống bẫy mực[1] xuống biển, và con mực vì nghĩ rằng cái ống kia là nơi ẩn náu tốt nhất nên đã chui gọn vào trong đó. Khi nó đang ngủ yên, hài lòng với giấc mơ lơ đãng của mình thì người đánh cá láu lỉnh đã kéo lưới lên. Trí tuệ con người phải chăng là như vậy. Khi trí thông minh cứ lớn dần thành một “hệ thống”, con người không chỉ giữ gìn sự sống của chính mình mà còn cố hủy diệt ít nhiều những sự sống khác. Con người sẽ nghĩ thầm: thật là một con mực tội nghiệp, nằm trong bẫy mà nó vẫn mơ giấc mơ ngắn ngủi dưới ánh trăng mùa hạ. Nhưng con người có thuộc về giống trí tuệ cao cấp không khi họ luôn tìm mọi cách hủy hoại nhau bằng đủ thứ vũ khí “tuyệt vời”. Con người không biết rằng “kẻ đang mơ mộng ngắn ngủi dưới ánh trăng hè” kia cũng chính là sự thật về cuộc sống hão huyền ở khắp mọi nơi. “Hakanaki” không chỉ có nghĩa là “thoáng qua” mà còn là “phù phiếm”, “vô nghĩa”, “vô ích”, “vô dụng”; nó không chỉ là chuyện con mực nằm mộng mơ kín đáo trong chiếc ống bẫy của người đánh cá; nó còn là mỗi chúng ta, chính là người đánh cá đang mơ những giấc mơ lười biếng phù du. Nếu không vì ánh trăng mộng ảo ấy thì sự tồn tại của chúng ta trên trái đất này rất có thể chẳng còn chút ý nghĩa, ngoại trừ đó là “niềm hư ảo của mọi hư ảo”. Ecclesiates, tác giả cuốn Sách Thánh viết: “Con người sẽ thực sự nhận được nguồn lợi gì từ nỗ lực lao động của mình dưới mặt trời vĩ đại?”.
(5) Con đom đóm nhấp nháy:
Ôbotari Con đom đóm to
Yutari yutari to nhấp nháy nhấp nháy
Tori keri một mình bay qua
“Yutari yutari to” là từ nguyên gốc Nhật Bản, được dịch là “waveringly” nghĩa là “nhấp nháy”, theo bản dịch của Blyth. Tôi không rõ đây có phải là từ tiếng Anh thích hợp nhất tương ứng với “Yutari yutari to” không. Loại từ láy này thể hiện cảm giác nhiều hơn nhận thức, vì vậy không thể thay nó bằng những từ thuộc về quan niệm trừu tượng. Ngôn ngữ Nhật Bản và Trung Quốc đều rất phong phú về kiểu láy này, cho thấy người phương Đông không những không thiên về kiểu tư duy trừu tượng như hầu hết người phương Tây mà họ còn sống khép kín trong những kinh nghiệm cổ xưa về thực tại so với những người thuộc các nước có hệ thống phân tích và trừu tượng hóa ở trình độ cao. Rất có thể không có một từ tiếng Anh nào trong số các từ sau đây tương đương với “Yutari yutari to”:”waveringly”– nhấp nháy, “unsteadily” – leo lét, “unreliably”- ảo ảnh, “discontinously” – gián đoạn, “fluctualtingly” – giao động, “vibratingly: – rung động, “unquietly”- xao động, v.v… Tất cả chúng đều là những từ mô tả khái niệm; trong khi đó, “Yutari yutari to” là cụm từ mô tả khoảnh khắc lung linh gián đoạn, ý nghĩa của nó phong phú hơn các từ chỉ khái niệm. Nó mang đến cảm giác tự do, vô tư, chân thật, một sự sống không bị cái náo nhiệt bên ngoài xô đẩy, một tinh thần bình tĩnh tự tại. Khi từ chỉ cảm giác này kết hợp với động từ chỉ hành động “tôri keri”, con đom đóm to lớn gợi hình ảnh một con người sống tự do, vô ngại, một cá thể chân thật trong bầu không khí ẩn dật siêu nghiệm. Một con đom đóm bay trong không khí, chẳng còn chút lưu luyến gì với mặt đất và những hệ lụy trần tục. Issa (1763 – 1827), tác giả bài haiku này, cho biết đã mất vài tháng để sửa chữa hoàn chỉnh bài thơ. Vậy mà trông nó rất tự nhiên, như thể nó được sáng tạo bởi một niềm thi hứng bất ngờ. Tiếp tục đọc →
Thích bài này:
Thích Đang tải...
Filed under: Bình luận Thơ, Thiền, Thơ | Tagged: Thiền và Thơ Haiku, Thơ Haiku | Leave a comment »