Từ bỏ đi những thói quen từ lâu theo đuổi
Một chút hờn, một chút giận vướng mang
Biết đâu chúng sẽ trở nên trói buộc tiềm tàng ( triền cái)
Dễ dàng kết tụ lâu dần thành tập khí !
Từ bỏ đi mọi đua đòi, cội nguồn ganh tỵ ích kỷ
Muốn làm sang, hảnh diện hơn hết trong đời
Vay tiền, mua sắm không biết thức thời
Chẳng có khi nào,
Nghĩ rằng bịnh tật, việc làm sẽ thay đổi !!!
Ngẫm thương thay,
Chỉ vì Si mê gây nghiệp tội
Đã sai sử Tham, Sân trong chính mình thôi
Từ bỏ đi : “Tôi “còn không có …nói chi “Của Tôi “
Bài học về thập triền, thập sử … bạn ơi kinh sợ quá !!
Biết vị trí mình đang đứng chỗ nào sẽ thỏa
Huỳnh Phương-Huệ Hương
Chuyện Thủ Huồng và nhân quả Luân Hôi
Trên địa bàn Biên hòa có một số địa danh gắn liền với nhân vật Thủ Huồng. Cầu Thủ Huồng, Rạch Thủ Huồng ở làng Mỹ Khánh, phường Bửu Hòa và chùa Thủ Huồng ở Cù Lao Phố (xã Hiệp Hoà). Ngôi chùa này còn có tên gọi là chùa Chúc Thọ hay chùa Sau (vì nằm phía sau chùa Đại Giác).
Các địa danh, di tích này gắn liền với câu chuyện về một nhân vật trên vùng đất Biên Hòa – Đồng Nai xưa. Đó là Ông Võ Thủ Hoằng (đọc trại thành Huồng), người đứng ra lập chùa, là một nhân vật có thật song mang nhiều nét huyền thoại. Vào đầu thời Nguyễn, cách nay lối hai trăm năm, với chức thư lại, ông dùng nhiều thủ đoạn vơ vét được nhiều tiền của, chiếm đoạt khá nhiều ruộng đất. Khi vợ chết, ông làm ma chay linh đình. Sau đó, ông thôi việc quan, về sống cuộc đời trưởng giả.
Nhớ thương vợ ông tìm đến chợ Mãnh Ma (là nơi người sống và người chết có thể gặp nhau, âm dương giao hòa vào lúc nửa đêm vào mùng một tháng sáu hàng năm).
Tại đây, Thủ Huồng gặp vợ và được vợ dẫn xuống Âm phủ. Khi đến chốn này, Thủ Huồng chứng kiến những người từng gian ác trên thế gian bị trừng phát nặng nề sau khi chết. Trong dãy nhà giam của địa phủ, Thủ Huồng thấy một cái gông lớn dành sẵn cho ông.
Sau đó, Thủ Huồng trở về xứ Trấn Biên, thay đổi cách sống. Ông ra sức giúp đỡ người nghèo khó, mạnh tay bố thí, cúng ruộng và tiền cho chùa, cho làng, chia cho thôn xóm, đến Cù Lao Phố dựng chùa cúng Phật.
Đặc biệt, trong các việc làm giúp người, ông làm một chiếc bè lớn, trên dựng nhà có đủ chỗ nghỉ ngơi, sẵn nồi niêu, củi, gạo, mắm, muối… cho những người nghèo khó lỡ độ đường có thể tạm trú đôi ba bữa mà không phải trả tiền. Ngã ba sông có chiếc bè từ thiện đó được gọi là ngã ba Nhà Bè. Võ Thủ Hoằng sống những ngày cuối đầy thanh thản và được xa gần ca ngợi.
Sau đó khá lâu, tương truyền vua Đạo Quang nhà Thanh (Trung Quốc) khi sinh ra, giữa lòng bàn tay có hàng chữ: “Đại
Nam, Biên Hòa, Thủ Hoằng”. Triều đình nhà Thanh cử sứ giả qua tìm hiểu lai lịch và tiến cúng chùa Chúc Đảo (nay là chùa Chúc Thọ) ba tượng phật bằng gỗ trầm hương. Dân gian cho rằng, nhờ vào lòng phục thiện, công đức nên Thủ Huồng đã đầu thai được làm vua.
Câu chuyện Thủ Huồng mang nhiều màu sắc huyền tích, được truyền tụng trong dân gian, chắc chắn sẽ sống lâu dài vì đó là một bài học về lòng nhân ái, hướng thiện của con người.
Thủ Huồng tên thật Võ Hữu Hoằng, theo chuyện kể thì ông là người châu Đại Phố (tức Cù Lao Phố), huyện Phước Chính, phủ Phước Long, nước Đại Nam (nay là Biên Hòa, Việt Nam). Theo Đại Nam Nhất Thống Chí, ông có tên Võ Hữu Hoằng. Nhưng dân chúng đọc trại Hữu thành Thủ, Hoằng thành Huồng, nên tên thật bị biến thành Võ Thủ Huồng, gọi tắt là Thủ Huồng, có nơi ghi là Thủ Huồn, Thử Huờn, Thủ Hoằng, Võ Thủ Hoằng.
Khoảng năm 1755, ở châu Đại Phố có một người tên là Võ Hữu Hoằng, xuất thân làm thơ lại. Trong hai mươi năm làm việc trong nha môn, ông đã thu tóm được nhiều tiền của. Sau khi vợ mất sớm lại không con, mà tiền bạc thì quá thừa thải, Thủ Huồng cáo quan về nhà.
Thủ Huồng rất yêu vợ, cho nên khi nghe người mách rằng ở chợ Mãnh Ma (Quảng Yên) là chỗ người sống và người chết có thể gặp nhau, ông quyết đi tìm vợ. Gặp nhau, trong lúc trò chuyện, Thủ Huồng ngỏ ý muốn xuống âm phủ chơi và được vợ đồng ý dắt đi.
Ở cõi âm, ông tận mắt nhìn thấy những cực hình dành cho những kẻ phạm nhiều tội ác khi còn sống. Và ông cũng đã nhìn thấy một cái gông to, mà cai ngục cho biết là để dành cho ông sau khi ông qua đời…
Khi trở lại cõi dương, Thủ Huồng đem toàn bộ tài sản dùng vào việc bố thí, xây dựng những công trình phúc lợi, đặc biệt là làm nhà để giúp dân nghèo dừng chờ nước triều ở ngã ba sông.
“Thuở ấy, dân cư còn thưa thớt, ghe đò hẹp nhỏ, hành khách nấu cơm, đun trà rất khổ, vì vậy có người phú hộ ở tổng Tân Chánh là Võ Thủ Hoằng kết tre lại làm bè, trên che lợp phòng ốc, sắm đủ bếp núc, gạo, củi, và đồ ăn để dưới bè cho hành khách tùy ý dùng mà không bắt phải trả tiền. Sau đó khách buôn cũng kết bè nổi bán đồ ăn nhiều đến 20, 30 chiếc, nhóm thành chợ trên sông, nên mới gọi xứ ấy là Nhà Bè. Sau này đường thủy, đường bộ lưu thông, dân cư đông đúc, người qua lại đều dùng ghe nhà nên đò dọc phải dẹp bỏ…”. Vì kỵ húy tên vua Hoằng Lịch – tức vua Càn Long – nhà Đại Thanh (Trung Hoa) nên phải đọc trại đi là Võ Thủ Huồng. Cầu Thủ Huồng giữa Tân Vạn và chợ Đồn (Biên Hòa) tương truyền do Võ Thủ Huồng kiến tạo đến nay vẫn còn.
Sau, Thủ Huồng được vợ đưa xuống cõi âm lần nữa, và thấy cái gông ngày cũ đã nhỏ lại rất nhiều. Từ đó, ông tiếp tục làm việc thiện, việc nghĩa cho đến khi mất.
Khá lâu sau, có ông vua nhà Thanh (Trung Hoa) tên là Đạo Quang (1782-1850) lúc mới lên ngôi (1820) có cho sứ sang Việt Nam hỏi lai lịch một người ở Gia Định. Nguyên lai là khi mới sanh, trong lòng bàn tay vua đã có mấy chữ “Đại Nam, Gia Định, Thủ Hoằng”. Khi rõ chuyện, nhà vua có gởi cúng chùa Chúc Thọ (bấy giờ gọi là chùa Thủ Huồng) ở Biên Hòa một bộ tượng Tam Thế Phật bằng gỗ trầm hương. Do việc này, mà người ta bảo rằng: Nhờ thành thật hối lỗi, Thủ Huồng chẳng những làm tiêu mất cái gông đang chờ ông ở cõi âm, mà còn được đầu thai làm vua ở Trung Hoa.
Ngày nay, ở Cù Lao Phố (Biên Hòa) còn có một ngôi chùa liên quan đến Thủ Huồng. Chùa này ban đầu có tên là chùa Chúc Đảo, sau đổi là Chúc Thọ (vì chữ “Thọ” tự dạng giống chữ “Đảo” mà lại có ý nghĩa hơn) tọa lạc ở số 542A2, phường Hiệp Hòa, thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai. Chùa được dựng vào thế kỷ XIX, còn có tên là chùa Thủ Huồng, do tích ông Thủ Huồng sau khi được người vợ quá cố dẫn đi thăm âm phủ, đã thấy tội lỗi của mình nên đã bán cả gia sản để làm phước, xây chùa. Chùa đã được trùng tu nhiều lần. Hiện nay trong chùa còn bảo tồn 3 pho tượng Phật cổ bằng gỗ và bộ tượng A-la-hán cao 0,74m bằng đất nung từ thế kỷ XIX .
Con rạch chạy ngang qua đường Tân Vạn (từ thành phố Biên Hòa vòng qua quốc lộ 1A đi Sài Gòn) do Thủ Huồng sai vét nên gọi là rạch Thủ Huồng. Chiếc cầu đá trên đường gần sông Đồng Nai đi Tân Vạn cũng gọi cầu Thủ Huồng, vì nhờ ông mới có. Còn chỗ ngã ba sông Đồng Nai và sông Sài Gòn, nơi mà Thủ Huồng cho kết bè nổi để cho khách thương hồ có nơi ăn nghỉ đợi chờ con nước, sau biến thành cả một khu chợ trên sông. Do đó cái tên bến Nhà Bè, sông Nhà Bè, huyện Nhà Bè… chính là để ghi dấu cái “nhà bè” do Thủ Huồng lập ra trên khúc sông vừa kể.
(Trong tập “Liêu Trai Chí Dị” của Bồ Tùng Linh, một cuốn sách khá quen thuộc với người đọc Việt Nam cũng có truyện “Thủ Huờn tìm vợ”).
Sưu Tầm trên mạng
Huỳnh Phương – Huệ Hương
Thích bài này:
Thích Đang tải...
Filed under: Sưu tầm, Thái độ, Thói quen xấu, Thơ, Truyện cổ, Tu học | Tagged: Chuyện Thủ Huồng và nhân quả Luân Hôi, Từ bỏ thói quen xấu, Thơ HPHH |
Trả lời