Biệt Ly và Doãn Mẫn

https://i0.wp.com/upload.wikimedia.org/wikipedia/vi/thumb/9/91/Doan_Man.jpg/220px-Doan_Man.jpg

Doãn Mẫn sinh  năm 1919 tại làng Hoàng Mai (kẻ Mơ) Hà Nội. Cha của ông là Doãn Tính rất giỏi âm nhạc dân tộc, cũng là một tay đàn bầu có hạng.

Doãn Mẫn tự học nhạc và thụ giáo thêm với một người Pháp tên Banal, nguyên chỉ huy dàn nhạc Quân đội Pháp trong một thời gian chủ yếu là về phối âm, phối khí. Trước khi là nhạc sĩ, Doãn Mẫn từng là nhạc công biểu diễn nhiều nơi.

Cũng như nhiều thanh niên thời đó, Doãn Mẫn bị dòng nhạc phương Tây cuốn hút. Ông cùng Văn Chung và Lê Yên lập nhóm nhạc Tricéa, thường tụ tập trao đổi về âm nhạc và sáng tác. Tên nhóm Tricéa có nghĩa: 3 chữ C và 3 chữ A được viết tắt từ tiếng Pháp: Collection Des Chants Composés Par Des Artistes Annamites Associés: “Tuyển chọn các tác phẩm âm nhạc của nhóm người viết nhạc Annam”. Cùng nghe những đĩa nhạc của Tino Rossi, Josephine Baker, họ cùng nhau sáng tác những bài hát của riêng mình: Văn Chung có Bóng ai qua thêm, Đôi mắt huyền… và Lê Yên có Bẽ bàng, Vườn xuân…

Doãn Mẫn sáng tác ca khúc đầu tay Tiếng hát đêm thu năm 1937, lời của Văn Chung. Sau đó nhiều nhạc phẩm khác lần lượt ra đời Gió thu (1937), Một buổi chiều thu (1939), và Biệt Ly (1939).

Những năm cuối thập kỷ 1930, ga Hàng Cỏ Hà Nội là nơi chia ly của nhiều đôi tình nhân, khi các thanh niên lên đường làm lính Lê dương cho quân đội Pháp. Chứng kiến nhiều cuộc chia tay ở đó, Doãn Mẫn đã viết bài Biệt Ly, nhạc phẩm nổi tiếng nhất của ông.

“Tôi viết Biệt Ly năm tôi vừa 20 tuổi. Hồi đó, cha tôi làm việc ở ga Hàng cỏ, Hà Nội. Nhà ở gần ga nên tôi thường hay ra ga chơi, chứng kiến nhiều cuộc chia tay đầy nước mắt trên sân ga, nhất là những đôi trai gái yêu nhau nhưng vì hoàn cảnh phải ly biệt. Điều đó khơi dậy trong lòng tôi nhiều cảm xúc và tôi có ý định sáng tác một bài hát về đề tài chia ly. Tôi nghĩ rằng tôi sáng tác bài Biệt Ly với rất nhiều kỷ niệm. Qua những cuộc chia ly mà tôi được chứng kiến ở sân ga Hà Nội, ở bến cảng Hải Phòng đã cho tôi rất nhiều xúc động. Tôi đã dự kiến làm bài Biệt Ly này từ năm 1937, tức là năm tôi bắt đầu sáng tác. Nhưng mà rồi có nhiều trường hợp khác cho nên tôi lại viết về chủ đề khác, cho đến năm 1939, có mấy việc dồn dập đến, tôi trở lại cái đề tài này. Có những buổi biểu diễn ở các rạp, một phần nữa do các anh em ở trường Bưởi làm ca cảnh, cho nên cái bài đó mới được phổ biến.”

Doãn Mẫn từng giữ chức trưởng phòng giáo vụ của Nhạc viện Hà Nội trong 20 năm. Thời gian đó ông không sáng tác gì, vì theo lời của Doãn Mẫn, ông “phải đi lo cả việc… học viên có con nhỏ không ăn được thì phải làm thế nào, chỗ ăn, ở, nhà vệ sinh bẩn thỉu thì làm sao”. Ngoài 70 tuổi, Doãn Mẫn mới viết nhạc trở lại.

Ông qua đời  năm 2007 tại Hà Nội.

Trong sự nghiệp của mình, Doãn Mẫn viết khoảng 50 ca khúc, trong đó nhiều bài được đánh giá vượt thời gian như Biệt Ly, Hương Cố Nhân.

Tác giả :  NNS

Túy Phượng chuyển bài

Bài  II :   Doãn Mẫn – biệt ly từ đây…

Tin nhạc sĩ Doãn Mẫn tạ thế ập đến tôi vào một sớm rây mưa Hà Nội thật buồn. Vậy là người nhạc sĩ cuối cùng của nhóm Tricéathời đầu tân nhạc đã ra đi ở tuổi 88.

 Nghe ca khúc Biệt ly qua giọng hát Elvis Phương
 Nghe độc tấu bài Biệt ly

https://i0.wp.com/images1.tuoitre.vn/Tianyon/Cache/Image/46/191046.jpgNgày ấy, ở quanh Nhà thờ Lớn Hà Nội có rất nhiều thanh niên đem lòng say mê âm nhạc khi bị quyến rũ bởi những giai điệu thánh ca. Giữa nhiều thanh niên đó, Doãn Mẫn đã không nghĩ như thế. Ông đã cùng Văn Chung và Lê Yên lập ra nhóm Tricéa chủ trương sáng tác những giai điệu hướng về dân tộc.

Ngay từ ca khúc đầu tay Tiếng hát đêm thu (lời: Văn Chung), Doãn Mẫn đã trở thành một trong không nhiều tác giả tân nhạc thời kỳ đầu, vừa như một tuyên ngôn về thẩm mỹ âm nhạc riêng mình. Rồi liên tiếp những Gió thu, Một buổi chiều mơ, Bến yêu đương, Sao hoa chóng tàn, Từ đâu tiếng tơ, Hương cố nhân, Nhạc chiều, Gió khơi xa… và đặc biệt là Biệt ly được ông sáng tác vào năm 1939 đã làm xao động bao con tim của nhiều thế hệ mến mộ âm nhạc.

Năm ấy là năm Chiến tranh Thế giới lần thứ hai bùng nổ. Nhiều người dân Việt bị buộc phải đi lính thợ sang Pháp tham chiến. Bến cảng Hải Phòng là nơi diễn ra cảnh chia tay như thế.

Thực ra, cảm xúc lúc chia tay đã trở thành cảm hứng thường nhật của văn nghệ sĩ thời tiền chiến, nên để có một cái gì ấn tượng, một cái gì khác thường đâu dễ. Vậy mà Doãn Mẫn đã bất hủ với Biệt ly và sau ông là Thâm Tâm với Tống biệt hành. Nhưng nếu Tống biệt hành đầy chất cổ thi bi hùng, khảng khái Đưa người ta không đưa qua sông/Sao có tiếng sóng ở trong lòng… thì ở Biệt ly lại tràn trề một sự tươi mới, nồng nàn và lãng mạn: Biệt ly/Nhớ nhung từ đây/Chiếc lá rơi theo heo may/Người về có hay – Biệt ly/Sóng trên dòng sông/Ôi còi tàu như xé đôi lòng….

Doãn Mẫn ( còn được viết là Dzoãn Mẫn) sinh ngày 15 tháng 10 năm 1919 tại Hà Nội. Nhạc phẩm Biệt ly được ông viết năm 1939 là tác phẩm nổi tiếng nhất. Một số tác phẩm tiêu biểu của ông:
Cô lái thuyền
Gió thu
Gió xa khơi
Gọi nghé trên đồng
Hương cố nhân
Một buổi chiều mơ
Một buổi chiều thu
Một hình bóng
Nhạc chiều
Nhắn người chiến sĩ
Sao hoa chóng tàn
Tiếng hát đêm thu
Trở lại cùng anh 

Người ra đi cùng mây trôi nước trôi ngày tháng trôi mà nhớ thương thì vẫn dư ảnh lại mãi cùng nhân gian. Và cứ thế, Biệt lyđã vượt qua năm tháng để trở thành một trong những tình khúc bất tử của mọi thời đại ở Việt Nam.

Chính vì có tấm lòng chân thành hướng về dân tộc, ngay từ 1944, Doãn Mẫn đã viết Nhắn người chiến sĩ mang âm hưởng không khí cách mạng thời chuẩn bị tổng khởi nghĩa. Bài hát lạc quan này được hát những năm đầu kháng chiến chống Pháp. Lúc này, ông đã có thêm hành khúc Dũng tiến được Đinh Ngọc Liên chuyển soạn cho dàn quân nhạc.

Rồi Những mầm sống, Sông Thao… khi ở Đoàn văn công Nhân dân cùng Lê Yên. Sau hoà bình, Doãn Mẫn lại có Gọi nghé trên đồng (lời Hồng Đăng) cũng rất ấn tượng. Khi đó, ông đã về công tác tại Trường Âm nhạc Việt Nam – nay là Nhạc viện Hà Nội. Đến khi về Viện Âm nhạc, ông đã công bố hai công trình: Góp phần tìm hiểu sự hình thành nền âm nhạc cải cách Việt Nam giai đoạn 1930 – 1945Những bước phát triển trong công tác đào tạo cán bộ âm nhạc từ Cách mạng tháng Tám đến năm 1975.

Thời trai trẻ, chính nhờ cuốn Tự học xướng âm của ông cùng cuốn Ký âm phổ thông của Phạm Tuyên, chúng tôi đã thoát nạn “mù nhạc” và có đứa còn cao hứng sáng tác ca khúc bằng khả năng xướng âm tự học của mình. Khi tôi được gặp Doãn Mẫn ở phố Nhà Thờ thì ông đã vào tuổi “cổ lai hy”.

Lúc đó, nhờ đổi mới, những ca khúc lãng mạn thời tiền chiến, trong đấy có Biệt ly đã được trình diễn trở lại sau nhiều thập kỷ vắng bóng. Doãn Mẫn thường nhỏ nhẻ, tươi vui trong một dáng vẻ lão thực. Nhiều câu chuyện thú vị về thời xa xưa đã được ông kể lại say sưa.

Năm ngoái, vào đầu hạ, cả Hà Nội đã thương buồn đưa tiễn tài tử Ngọc Bảo – người hát Biệt ly hay nhất – vào cõi vĩnh hằng. Năm nay, lại là cuộc đưa tiễn chính tác giả Biệt ly – người cuối cùng của nhóm Tricéa ra đi. Cầu mong ông yên giấc ngàn thu.

Theo NGUYỄN THỤY KHA – Lao Động

BIỆT LY – THÁI THANH

Một bình luận

  1. Em rất thích Biệt Ly chị ạ. Thật tuyệt cả ca từ lẫn giai điệu. Em biết bài này năm đầu đại học; Từ 1972 đến giờ luôn yêu ca khúc này của nhạc sĩ Doãn Mẫn. Biệt Ly xứng đáng là Tình Khúc Vượt Thời Gian
    Cám ơn Chị đã chuyển những bài rất hay.

    Thích

Bình luận về bài viết này

Trang web này sử dụng Akismet để lọc thư rác. Tìm hiểu cách xử lý bình luận của bạn.

Banmaihong's Blog

Nơi Đây Nắng Ban Mai Hồng Reo Vui

Blog Chuyên Anh

Nurturing Language Talents